Juliet
Chương 3
Bông hồng dù gọi tên nào
Thì hoa cũng vẫn ngạt ngào thơm hương
--- --------oOo---- -------
Phong cảnh nhìn từ pháo đài Fortezza cổ xưa rất ngoạn mục. Không chỉ vì tôi có thể nhìn thấy những mái nhà màu nâu đỏ của Siena bị nắng chiều hun nóng, mà còn vì những quả đồi cuồn cuộn, nhấp nhô quanh tôi giống như đại dương xanh lục và xanh lơ trải dài ít nhất hai chục dặm. Thình thoảng tôi ngước mắt khỏi thứ đang đọc, thu nhận phong cảnh bao quát, hy vọng đẩy hết không khí cũ ra khỏi phổi và rốt đầy mùa hè vào người. Cứ mỗi lần nhìn xuống và đọc tiếp nhật ký của danh họa Ambrogio, tôi lại chìm đắm vào những sự kiện đen tối của năm 1340.
Tôi mất cả buổi sáng ở quán cà phê của Malena ở quảng trường Postierla, giở qua các bản Romeo và Juliet xưa của Masuccio Salernitano năm 1476 và của Luigi Da Porto năm 1530. Thật thú vị khi thấy cốt truyện phát triển, Da Porto đã làm một cú huých trong văn chương với câu chuyện mà Salernitano khẳng định là dựa trên những sự kiện có thật.
Trong bản của Salernitano, Romeo và Juliet – hay đúng hơn, là Mariotto và Giannozza – sống ở Siena, nhưng cha mẹ họ không xung đột. Họ đã bí mật kết hôn sau khi mua chuộc một tu sĩ, nhưng kịch tính chỉ thực sự bát đầu khi Mariotto giết chết một công dân ưu tú và phải chịu cảnh lưu đầy. Trong khi đó, cha mẹ Giannozza – không hay biết con gái đã kết hôn – quyết định gả nàng cho người khác. Thất vọng, Giannozza nhờ tu sĩ chế một loại thuốc ngủ cực mạnh, tác dụng mạnh đến mức cha mẹ nàng ngỡ nàng đã chết và liền đem chôn. May thay, vị tu sĩ già tốt bụng đã cứu nàng khỏi hầm mộ, và Giannozza bí mật đi thuyền từ đó đến Alexandria, nơi Mariotto đang sống êm đềm. Song, người đưa tin có nhiệm vụ báo cho Mariotto về kế hoạch thuốc ngủ kia bị bọn cướp biển bắt giữ, nên khi nhận tin về cái chết của Giannozza, Mariotto lao về Siena để được chết bên nàng. Ở đây, chàng bị lính bắt và bị chém đầu. Còn Giannozza trải hết phần đời còn lại trong một nhà tu kín.
Tôi có thể thấy những yếu tố chủ chốt trong nguyên bản này là: cuộc kết hôn bí mật, Romeo bị trục xuất, kế hoạch uống thuốc ngủ liều lĩnh, người đưa tin bị lạc đường, Romeo chủ ý tự tử vì tưởng rằng Juliet đã chết thật.
Lẽ tất nhiên, những sự kiện quan trọng đều xảy ra ở Siena, và nếu Malena ở quanh quất đâu đây, tôi sẽ hỏi cô liệu đây có phải là kiến thức phổ cập không. Tôi rất ngờ là không.
Nửa thế kỳ sau, D Porto kể lại câu chuyện này rất hấp dẫn. Ông cũng hăm hở dựa vào các tình tiết có thật, tới mức gọi Romeo và Giulietta bằng tên thật của họ. Tuy vậy, ông tránh nêu địa danh, và chuyển toàn bộ câu chuyện đến Verona, thay đổi họ của các nhân vật, rất có thể để tránh sự báo thù của các thị tộc hùng mạnh liên quan đến vụ bê bối này.
Nhưng hãy chú ý đến các việc liên quan; theo cách hiểu của tôi, - có vài tách cà phê cappuccino trợ giúp, - Da Porto viết truyện thú vị hơn nhiều. Ông là người đưa ra ý tưởng về buổi vũ hội hóa trang và cảnh trên ban công, và tài năng thực sự của ông là đã nghĩ ra vụ tự tử kép. Điều duy nhất tôi không hiểu ngay là ông để Juliet chết bằng cách nín thở. Có lẽ D Porto cảm thấy khán giả không thích một cảnh đẫm máu…may mắn thay, Shakespeare không đắn đo quá ư thật trọng như thế.
Sau D Port, một người tên là Bandello cảm thấy buộc phải viết bản thứ ba và thêm thắt nhiều cuộc đối thoại sướt mướt mà không sửa đổi bản chất của cốt truyện. Nhưng từ đó, câu chuyện đã được người Ý hoàn tất, và nó đi lang thang, trước tiên đến Pháp, rồi đến Anh cuối cùng nằm trên bàn của Shakespeare và trở nên bất hủ.
Theo tôi hiểu, sự khác biệt lớn nhất giữa các nguyên bản đầy chất thơ này với nhật ký của danh họa Ambrogio là trong thực tế, có ba gia đình dính dáng chứ không phải hai. Dòng họ Tolomei và Salimbeni có mối thù truyền kiếp – được gọi là Capulets và Montagues – trong khi Romeo thực ra thuộc gia đình Marescotti và là người ngoài. Về mặt này, bản của Salernitano chính xác nhất, câu chuyện xảy ra ở Siena, và không hề nhắc tới mối cừu hận gia đình nào.
Sau đó, trên đường từ Forrtezza về, áp chặt cuốn nhật ký của Ambrogio vào ngực, tôi nhìn những con người vui vẻ quanh mình và một lần nữa cảm thấy bức tường vô hình giữa tôi và họ. Họ đi, chạy, ăn kem, không dừng lại tìm hiểu quá khứ, không như tôi, bị đè nặng cảm giác mình không hoàn toàn thuộc về thế giới này.
Buổi sáng hôm đó, tôi đứng trước tấm gương trong buồng tắm, đeo cái dây chuyền có cây thánh giá bạc trong hộp của mẹ, và quyến định từ nay sẽ đeo nó. Rốt cuộc, nó là đồ của mẹ tôi, và được để lại trong hộp, rõ ràng có ý dành cho tôi. Không hiểu vì sao, tôi tin nó sẽ che chắn cho tôi khỏi lời nguyền khiến bà từ giã cõi đời lúc còn quá trẻ.
Tôi mất trí chăng? Có lẽ thế. Nhưng, có nhiều loại mất trí khác nhau. Bà Rose luôn cho rằng cả thế giới này đang trong tình trạng điên rồ, không ngừng dao động thất thường, chứng loạn thần kinh chức năng không phải là một bệnh, nhưng là một thực tế của cuộc đời, như mụn nhọt vậy. người nhiều, người ít, nhưng đúng là chỉ những người khác thường mới không điên tí nào. Các triết lý thản nhiên này đã an ủi tôi nhiều lần trước đây và lúc này cũng vậy.
Lúc tôi về đến khách sạn, giám đốc Rossini đến thẳng chỗ tôi như một người đưa tin từ Marathon nóng lòng báo cho tôi biết:
- Cô Tolomei! Cô ở đâu thế? Cô phải đi ngay! Ngay bây giờ! Nữ bá tước Salimbeni đang đợi cô ở cung điện Pubblico! Đi đi, - ông xua tôi như người ta xua một con cún đang quanh quẩn tìm đồ ăn thừa, - cô không được để bà ấy đợi!
- Đợi ư? – Tôi chỉ vào hai vật nằm giữa sàn, đập ngay vào mắt. – Kia là vali của tôi!
- Vâng – vâng – vâng, chúng vừa được mang đến lúc nãy.
- Vậy tôi phải lên phòng và…
- Không! – giám đốc Rossini mở toang cửa trước và vỗ tay ra hiệu tôi chạy qua. – Cô phải đi ngay bây giờ!
- Tôi còn chưa biết nơi tôi sắp đến!
- Santa Caterina! – Mặc dù tôi biết ông thầm vui vì lại có dịp mở mang kiến thức cho tôi về Siena, giám đốc Rossini tròn mắt và vẫn giữ cửa. – Lại đây, tôi sẽ vẽ đường cho cô!
Vào Campo giống như bước vào một vỏ trai khổng lồ. Viền quanh mép là các khách sạn hiệu cà phê; đúng chỗ có viên ngọc, ở phần dưới cùng của một quảng trường dốc là cung Pubblico, được dùng làm tòa thị chính Siena từ thời Trung cổ. Tôi dừng lại một lát, thấm thía tiếng vang của nhiều giọng nói dưới vòm trời xanh lơ, những con bồ câu đập cánh khắp nơi, một đài bằng đá hoa trắng phun nước màu lam, cho đến lúc một đoàn du khách dồn đến sau tôi và cuối tôi đi, lao tới trước, kinh ngạc thích thú vì sự nguy nga, lộng lẫy của quảng trường khổng lồ.
Trong lúc viết hướng dẫn, giám đốc Rossini đoan chắc với tôi rằng Campo được coi la quảng trường đẹp nhất trong toàn cõi Italy, không chỉ dân Siena nghĩ thế. Thực ra, ông kể chi tiết vô số dịp các vị khách từ khắp nơi trên thế giới – kể cả từ Florence – đổ tới chỗ này và tán tụng vẻ duyên dáng của Campo. Lẽ tất nhiên, ông phản đối và chỉ ra nét huy hoàng của những nơi khác – chắc chắn là có ở mọi nơi, - nhưng dân chúng lắng nghe một cách miễn cưỡng, Họ khăng khăng cho rằng Siena là thành phố đẹp nhất, nguyên vẹn nhất trên Trái đất, và đứng trước niềm tin mãnh liệt như thế, lẽ nào giám đốc Rossini không cho rằng đúng là như vậy?
Tôi nhét tờ chỉ dẫn vào túi sách và khởi hành xuống cung Pubblico. Khó mà bỏ qua tòa tháp chuông Mangia cao vút, công trình mà Rossini đã miêu tả tỉ mỉ đến mức mất vài phút, tôi mới hiểu rằng nó không dựng đứng trước mặt ông mà ở khoảng nào đó cuối thời Trung cổ. Ông gọi nó là một bông huệ, một tượng đài kiêu hãnh tôn vinh sự thanh khiết của phụ nữ bằng một bông hoa đá trắng muốt trên cuống hoa màu đỏ. Và kỳ lạ thay, nó được xây dựng không có nền. Ông khẳng định tháp Mangia đã đứng đó hơn sáu trăm năm, vững vàng nhờ ân huệ của Chúa và niềm tin tuyệt đối.
Tôi giơ tay che nắng và ngắm ngọn tháp như vươn lên, chống đỡ bầu trời vô hạn. Tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác, sự thanh thiết của phụ nữ được tôn vinh bằng một biểu tượng dương vật xấp xỉ 110m. Nhưng có khi chỉ là tôi nghĩ thế.
Toàn bộ công trình – cung điện Publlico và tòa tháp – có sức nặng hoàn toàn theo nghĩa đen, vì dường như bản thân Campo bẹp rúm dưới trọng lượng của nó. Để Rossini nói rằng, nếu nghi ngờ, tôi cứ hình dung rằng có một quả bóng và đặt nó lên mặt đất. Dù tôi đứng ở đâu trên Campo, quả bóng cũng lăn tuột xuống tới lâu đài Pubblico. Hình ản này rất cuốn hút tôi. Có lẽ là ý nghĩ về một quả bóng nẩy trên hè đường gạch cổ xưa. Hay có khi chỉ vì cách ông phát âm từng từ, thì thào rất kịch tính, giống một thầy phù thủy nói chuyện với đứa trẻ lên bốn.
Lâu đài Pubblico giống như mọi chính thể, phát triển theo năm tháng. Khởi thủy, nó chỉ là một phòng họp dành cho chính nhà quản lý, nay là một cấu trúc lừng lẫy, và tôi bước vào sân trong với cảm giác đang bị theo dõi. Tôi tin là không hẳn bởi những người xung quanh mà bởi bóng dáng rơi rớt của các thế hệ quá khứ, những thế hệ đã dâng hiến sinh mạng cho thành phố này, vì mảnh đất nhỏ bé này là nơi các thành phố và cả vũ trụ đổ tới.
Eva Maria đợi tôi trong đại sảnh Peace. Bà ngồi trên chiếc ghế dài giữa phòng, ngước nhìn lên không trung, dường như đang lặng lẽ trò chuyện với Chúa. Nhưng tôi vừa bước qua cửa, bà quay phắt lại, và nụ cười vui thích nở rộng trên môi bà.
- Rốt cuộc cô đã tới!- Bà kêu lên, rồi đứng dậy và hôn lên hai má tôi. – Tôi bắt đầu thấy lo lắng.
- Xin lỗi vì để bà phải đợi. Tôi không biết là….
Nụ cười của bà xua tan tất cả những gì tôi có thể nói.
- Giờ thì cô ở đây rồi. Đấy mới là điều quan trọng. Nhìn này, - bà làm một cử chỉ bao quát vào các bích họa khổng lồ phủ kín các bức tường trong căn phòng. –Cô đã từng thấy thứ gì kỳ diệu như thế này chưa? Danh họa Ambrogio Lorenzetti vĩ đại của chúng tôi vẽ vào cuối những năm 1330. Chắc ông vẽ xong bức này, bên trên các cánh cửa, vào năm 1340. Bức đó tên là Quyền lực tối cao
Tôi quay nhìn bức bích họa nói trên. Nó phủ kín toàn bộ chiều dài bức tường, và muốn vẽ được nó, phải có nhiều cơ cấu phức tạp như thang, giàn giáo, có lẽ cả những bục treo từ trần xuống. Nửa bên trái miêu tả khung cảnh một thành phố thanh bình, với các cư dân hiền lành đang bận bịu công việc của họ; nửa bên phải là quang cảnh thoáng đãng của vùng thôn quê bên ngoài tường thành. Lúc đó, một ý nghĩ chợt lóe lên trong tôi, và tôi nói, lắp bắp:
- Bà nói là …danh họa Ambrogio ?
- Đúng thế, - Eva Maria gật đầu, không mảy may ngạc nhiên vì tôi có vẻ quen cái tên ấy. – Ông là một trong những danh họa vĩ đại nhất. Ông vẽ các cảnh này để ca ngợi sự chấm dứt hận thù giữa hai gia tộc Tolomei và Salimbeni. Cuối cùng, năm 1339, sự thể đã bình yên.
- Thật sao? – Tôi nghĩ đến cảnh Giulietta và tu sĩ Lorenzo chạy trốn bọn cướp Salimbeni trên đường cái bên ngoài Siena. – Tôi có cảm tưởng là năm 1340, tổ tiên chúng ta vẫn còn xung đột rất nhiều. Chắc là ở vùng thôn quê.
Eva Maria mỉm cười khó hiểu; hoặc bà hài lòng vì thấy tôi chịu khó nghiên cứu các truyền thuyết về gia tộc, hoặc bà phật ý vì tôi dám cãi lại bà. Nếu có mếch lòng, bà vẫn tỏ ra tao nhã để chấp nhận ý kiến của tôi, và nói:
- Cô nói đúng. Hòa bình có những hiệu ứng không lường trước được. Nó xảy ra ở bất cứ nơi nào bọn quan liêu lừng chừng, không giúp chúng ta. – Bà giơ cao hai tay. – Nếu dân chúng muốn đấu tranh, không thể ngăn họ được. Nếu ngăn chặn họ bên trong thành phố, họ sẽ chiến đấu ở vùng nông thôn, và ở đó, họ tha hồ tung hoành. Chí ít thì ở bên trong Siena, các cuộc bạo loạn thường bị dập tắt trước khi chúng vượt tầm kiểm soát. Vì sao?
Bà nhìn tôi, xem tôi có đoán ra không, nhưng lẽ tất nhiên, tôi không thể.
- Bởi vì, - bà nói tiếp, dứ ngón tay trước mũi tôi ra vẻ dạy dỗ. - ở Siena lúc nào chúng tôi cũng có quân đội. Muốn giữ gia tộc Salimbeni và Tolomei trong tầm kiểm soát, các công dân của Siena bị huy động và các đại đội của họ có thể tràn ra đường phố chỉ trong vòng vài phút. – Bà gật đầu khẳng định, tự tán thành. – Tôi tin rằng chính vì thế, ở đây truyền thống về lãnh dịa mới mạnh đến thế, kể cả hiện nay. Sự tận tụy của quân đội địa phương cũng có thể tạo nên nước cộng hòa Siena về cơ bản. Muốn kiểm soát những kẻ xấu, phải chắc chắn rằng người tốt đều được vũ trang.
Tôi mỉm cười vì kết luận của bà cố hết sức tỏ ra không hay biết gì. Giờ không phải lúc nói với Eva Maria rằng tôi không tin vào vũ khí vì theo kinh nghiệm của tôi, những người được gọi là tốt chẳng hơn gì kẻ xấu.
- Không đẹp sao? – Eva Maria tiếp tục và hất đầu về phía bức bích họa. – Một thành phố thanh bình với mọi cảnh tượng?
- Tuy vậy, tôi phải nói rằng trông dân chúng không mấy vui vẻ. Bà nhìn xem. – tôi nói, và chỉ vào một cô gái dường như bị kẹt giữa một tốp các thiếu nữ đang nhảy múa. – Hình như cô gái này ….đang suy nghĩ miên man.
- Có khi nàng nhìn thấy một đám cưới diễu qua? – Eva Maria gợi ý, hất đầu về ảnh vẽ một doàn người đi sau một hình vẽ trông giống cô dâu cưỡi ngựa. – Có khi nàng nhớ đến tình yêu đã mất chăng?
- Nàng nhìn vào cái trống. – Tôi nói và lại chỉ, - hoặc cái trống lục lạc. Còn những vũ công khác trông…thật độc ác. Nhìn cái kiểu họ dồn nàng kẹt trong điệu múa. Một người trong bọn họ đang nhìn chằm chặp vào vào bụng nàng. – Tôi liếc nhìn bà, nhưng khó mà dò đoán được vẻ mặt của bà. – Hoặc có lẽ tôi chỉ tưởng tượng ra thôi.
- Không, - bà nói khẽ, - rõ ràng danh hoạ Ambrogio muốn chúng ta chú ý đến này. Ông vẽ tốp phụ nữ đang nhảy múa này to hơn những người khác trong bức tranh. Nếu cô nhìn kỹ, sẽ thấy nàng là người duy nhất có tiara (CT: một thứ trang sức của phụ nữ hình lưỡi liềm, gắn châu báu, thường đội vào những dịp nghi lễ.) trên mái tóc
Tôi liếc nhìn và thấy bà nói đúng.
- Vậy, nàng là ai? Chúng ta có biết không?
Eva Maria nhún vai:
- Công khai thì không. Nhưng riêng cô với tôi thì, - bà ngả người về phía tôi và hạ thấp giọng, - tôi nghĩ nàng là tổ tiên của cô. Tên nàng là Giulietta Tolomei.
Tôi choáng váng nghe thấy bà gọi tên – tên của tôi – và nói rõ ràng, chính xác ý nghĩ tôi đã thổ lộ với Umberto qua điện thoại, đến mức giấy lát sau, tôi buột miệng hỏi một câu tự nhiên:
- Sao bà biết? ….Ý tôi nói là, nàng là tổ tiên của tôi?
Eva Maria suýt bật cười:
- Điều đó chẳng hiển nhiên lắm sao? Tại sao mẹ cô đặt tên cô theo tên nàng? Thực ra, chính bà đã kể với tôi rằng, cô là dòng dõi huyết thống trực hệ từ Giulietta và Giannozza Tolomei.
Tôi rùng mình khi nghe câu này – nói ra với sự đoán chắc như thế - và tôi không thể xử lý thông tin ngay lập tức.
- Tôi không biết bà quen mẹ tôi, - tôi nói, tự hỏi vì sao bà không kể điều này với tôi từ trước.
- Mẹ cô đã đến thăm tôi một lần. Cùng với cha cô. Trước khi họ cưới. – Eva Maria ngừng lời. – Bà còn rất trẻ. Trẻ hơn cô. Bữa tiệc đó có khoảng một trăm khách mời, chúng tôi dành suốt buổi tối hôm ấy trò chuyện về dah họa Ambrogio. Chính họ kể cho tôi những điều tôi nói với cô bây giờ. Họ rất am hiểu, rất quan tâm đến các gia tộc của chúng ta. Thật buồn khi sự việc lại ra nông nỗi này.
Chúng tôi đứng lặng một lát. Eva Maria nhìn tôi, gượng cười, dường như bà biết một câu hỏi đang cháy bỏng trên đầu lưỡi tôi, nhưng tôi không thể hỏi, đó là “Quan hệ của mẹ tôi – nếu có – với gã Luciano Salimbeni xấu xa ấy là gì, và bà biết gì về cái chết của cha mẹ tôi?”
- Cha cô tin rằng, - Eva Maria nói tiếp, không để tôi kịp hỏi, - danh họa Ambrogio ám chỉ một câu chuyện trong bức tranh này. Một thảm kịch xảy ra trong thời của ông ấy, và không thể bàn tán công khai. Nhìn này, - bà chỉ bức bích họa, - cô có nhìn thấy cái lồng chim xinh xắn ở cửa sổ tít trên kia không? Nếu tôi bảo cô rằng tòa nhà đó là lâu đài Salimbeni, và người đàn ông cô thấy ở bên trong chính là Salimbeni, được tôn vinh như một ông vua, trong khi những người kia cúi rạp bên chân ông ta để vay tiền?
Cảm thấy câu chuyện dù sao cũng làm bà đau đớn, tôi mỉm cười với Eva Maria, quyết không để quá khứ len vào giữa chúng tôi.
- Nghe chừng bà không tự hào vì ông ấy lắm.
Bà nhăn mặt:
-Ồ, ông ấy là một người vĩ đại. Nhưng danh họa Ambrogio không ưa ông ta. Cô không thấy sao? Nhìn xem…một đám cưới…một thiếu nữ buồn bã nhảy múa và, một con chim trong lồng. Cô nghĩ sao về những thứ đó?
Thấy tôi không trả lời ngay, bà nhìn ra ngoài cửa số.
- Cô biết không, khi tôi lấy Salimbeni, tôi mới hai mươi hai tuổi. Ông ta sáu mươi tư. Cô có nghĩ thế là già không?
Bà nhìn thẳng vào tôi, cố đọc ý nghĩ của tôi
- Không hẳn vậy, tôi nói. – Bà biết đấy, mẹ tôi….
- Phải, tôi biết, - Eva Maria ngắt lời tôi. – Tôi cho rằng ông ấy rất già và sẽ chết sớm. Nhưng ông ấy giàu có. Tôi có một ngôi nhà đẹp. Cô phải đến thăm nhà tôi, nhé.
Lời thú nhận thẳng thắn và lời mời của bà làm tôi lúng túng, tôi chỉ nói:
- Nhất định rồi, tôi thích thế.
- Tốt lắm! – Bà đặt bàn tay lên vai tôi. – Bây giờ cô phải tìm ra nhân vật nam chính trong bức bích họa!
Tôi suýt cười phá lên. Eva Maria Salimbeni là một bậc thầy đích thực trong nghệ thuật thay đổi chủ đề.
- Tìm đi, - bà nói, như cô giáo nói với một lớp toàn những học trò lười, - Người ấy đâu? Lúc nào cũng có một nhân vật chính. Hãy nhìn lên bức bích họa.
Tôi chăm chú ngước nhìn.
- Kia có thể là ai đó.
- Nhân vật nữ ở trong thành phố, - bà nói và chỉ, - trông rất buồn bã. Vậy nhân vật nam là…? Nhìn kia! Bên trái cô là cảnh sinh hoạt bên trong những bức tường thành. Rồi cô có Porta Romana, cổng thành phía Nam, cắt bức bích họa ra làm đôi. Còn bên tay phải là…
- Ồ, bây giờ tôi nhìn thấy rồi, - tôi nói, - anh chàng cưỡi ngựa, đang rời thành phố.
Eva Maria mỉm cười, không phải nói với tôi, mà với bức bích họa.
- Chàng điển trai không nào?
- Cực kỳ. Có gì trên mũ kia?
- Chàng là người đi săn. Nhìn chàng đi. Chàng có một con chim mồi và định thả nó ra, nhưng có cái gì đó giữ chàng lại. Còn một người đàn ông khác, ngăm ngăm đen hơn, đi bộ, xách hộp của họa sĩ, đang cố kể gì đó cho chàng, và nhân vật nam trẻ tuổi của chúng ta ngả người trên yên lắng nghe.
- Có lẽ người đi bộ kia muốn chàng ở lại trong thành phố? – Tôi gợi ý.
- Có lẽ. Nhưng liệu có xảy ra chuyện gì với chàng không, nếu chàng ở lại? Nhìn xem Ambrogio vẽ gì bên trên đầu chàng. Giá treo cổ. không phải là một lựa chọn dễ chịu, nhỉ? – Eva Maria mỉm cười. – Cô nghĩ chàng là ai nào?
Tôi không trả lời ngay. Nếu danh họa Ambrogio vẽ bức bích họa này với danh họa Ambrogio trong cuốn nhật ký tôi đang đọc là một, nếu người phụ nữ đang nhảy múa không vui vẻ, cài tiara trên tóc kia thực sự là tổ tiên của tôi, Giulietta Tolomei, thì người đàn ông cưỡi ngựa kia chỉ có thể là Romeo Marescotti. Nhưng tôi không muốn Eva Maria biết những phát hiện gần đây của tôi, cũng như nguồn gốc của chúng. Vả lại, bà là một Salimbeni. Vì thế, tôi chỉ nhún vai và nói:
- Tôi không biết.
- Nếu tôi bảo cô rằng, - Eva Maria nói, - đấy là Romeo trong vở Romeo và Juliet? Và tổ tiên của cô, Giulietta chính là nàng Juliet của Shakespeare
Tôi nín cười:
- Chuyện ấy chẳng bắt đầu ở Verona sao? Và Shakespeare đã sáng tác ra họ? Trong Shakespeare đang yêu…
Shakespeare đang yêu! Eva Maria nhìn tôi, dường như hiếm khi bà nghe thấy một điều kinh sợ đến thế. – Giulietta, - bà đặt tay lên má tôi, - hãy tin tôi khi tôi nói rằng câu chuyện ấy xảy ra ở đây, ở Siena này. Từ rất, rất lâu trước thời Shakespeare. Và họ ở đây, trên kia, trên bức tường này. Romeo bị lưu đầy, còn Juliet chuẩn bị kết hôn với một người nàng không yêu. – Bà mỉm cười vì vẻ mặt tôi, cuối cùng, bà buông tôi ra. – Cô đừng lo. Khi cô đến thăm tôi, chúng ta sẽ nói thêm về những chuyện buồn này. Cô định làm gì tối nay?
Tôi lùi lại một bước, mong che giấu sự sửng sốt vì quan hệ mật thiết của bà với gia đình tôi.
- Dọn dẹp ban công của tôi.
Eva Maria không bỏ lỡ thế chủ động
- Khi cô xong việc, tôi muốn cô cùng tôi nghe một buổi hòa nhạc rất hay. Đây…- Bà thọc tay vào xắc và rút ra tấm vé. – Đây là một chương trình tuyệt vời. Tôi đích thân chọn. Nhất định cô sẽ thích. Lúc bảy giờ. Sau đó, chúng ta đi ăn tối, và tôi sẽ kể cho cô nhiều hơn về tổ tiên cô.
Ngày hôm đó khi đến phòng hòa nhạc, tôi cảm thấy bứt rứt trong lòng. Đó là một tối đẹp trời, thành phố rộn rã vì những con người vui vẻ, nhưng tôi vẫn không thể chia sẻ niềm vui với họ. Rảo bước xuống phố, nhìn mà chẳng thấy gì ngoài vỉa hè trước mặt, dần dần tôi có thể xác định được nguyên nhân dẫn đến sự bực bội của mình.
Tôi đang bị lôi kéo.
Kể từ lúc đến Siena, mọi người đều thấp thỏm dặn tôi phải làm gì và nghĩ gì. Eva Maria là người hơn hết thảy. Hình như bà thấy thật tự nhiên khi những mong muốn và dự định kỳ quái của bà sai khiến được hành động của tôi – kể cả việc ăn mặc – và giờ đây, bà thao túng cả suy nghĩ của tôi. Giả sử tôi không muốn thỏa luận với bà về những sự kiện năm 1340 thì sao? Ờ không được, vì tôi không còn lựa chọn nào khác. Và thật lạ lùng, tôi vẫn mến bà. Tại sao lại thế nhỉ? Vì bà hoàn toàn trái ngược với bà Rose, là người luôn e sợ làm điều sai trái đến mức không bao giờ làm việc gì cho đúng ư? Hoặc tôi thích Eva Maria vì tôi không có bổn phận gì với bà? Biết tin này, chắc Umberto sẽ phát hoảng, và nhất định bảo tôi phải tránh cho xa bọn Salimbeni. Tôi đoán đây là tình trạng của Juliet. Phải, có lẽ đây là lúc cho Juliet có suy nghĩ lý trí. Theo chủ tịch Maconi, Salimbeni luôn là Salimbeni, và theo ông anh họ Peppo của tôi, thật tai họa cho bất cứ người nào thuộc họ Tolomei nếu cản trở chúng. Điều này không chỉ đúng với thời Trung cổ đầy sóng gió, mà ngay cả bây giờ, ở Siena hiện tại, bóng ma của kẻ giết người Luciano Salimbeni vẫn chưa rời bỏ nơi này. Nói khác đi, có lẽ đây là loại định kiến khiến mối thù truyền kiếp cổ xưa vẫn tiếp diễn qua bao thế hệ. Nhỡ gã Luciano Salimbeni khó hiểu kia chưa bao giờ đụng đến cha mẹ tôi, mà chỉ bị nghi ngờ do tên tuổi của gã? Không lạ gì nếu gã phải xa lánh người khác. Ở nơi bạn bị mọi người cho là kẻ có tội, đao phủ của bạn sẽ chẳng thích thú gì việc kiên nhẫn ngồi đợi hết phiên tòa.
Nói tóm lại, càng nghĩ về việc này, cán cân của tôi càng nghiêng về phía Eva Maria. Hơn nữa, hình như bà là người kiên quyết nhất chứng tỏ rằng, bất chấp mối hận thù của tổ tiên, chúng tôi vẫn có thể là bạn bè. Nếu thực như thế, tôi không muốn phá tung mọi sự.
Buổi hòa nhạc tối do Nhạc viện Chigiana đăng cai tổ chức tại lâu đài Chigi- Saracini, đối diện với hiệu uốn tóc của anh bạn Luigi. Tôi vào tòa nhà qua cái cổng mái, nổi bật trong một cái sân có hành lang ngoài bao quanh và một cái giếng cổ ở giữa. Tôi tự nhủ, các hiệp sĩ trong giáp phục sáng ngời từng kéo nước ở giếng này cho ngựa chiến của họ, và dưới đôi giầy cao gót của tôi là những tảng đá lát nền mòn nhẵn vì móng ngựa và bánh xe qua bao thế kỷ. Nơi này không quá lớn cũng không quá đường bệ, có một vẻ trang trọng lặng lẽ khiến tôi tự hỏi những sự việc diễn ra ngoài bức tường của cái sân không chịu ảnh hưởng của thời gian này liệu có ý nghĩa thực sự không.
Lúc tôi đứng đó, ngẩn người vì bức bích họa trên trần hành lang kín đáo, người dẫn chỗ đưa cho tôi một cuốn sách mỏng và chỉ cửa lên phòng hòa nhạc. Trong lúc trèo lên cầu thang, tôi liếc nhìn cuốn sách, tưởng là ghi chương trình. Nhưng đó là tóm tắt lịch sử của tòa nhà, bằng vài thứ tiếng khách nhau. Phần tiếng Anh bắt đầu bằng:
Lâu đài Chigi-Saracini, một trong những lâu đài đẹp nhất của Siena, ban đầu thuộc gia tộc Marescotti. Trung tâm của tòa lâu đài rất cổ, nhưng trong thời Trung cổ, gia tộc Marescotti đã hợp nhất với các tòa nhà lân cận, và giống như nhiều gia tộc hùng mạnh khác ở Siena, họ bắt đầu xây dựng một tòa tháp đồ sộ. Từ tòa tháp này, năm 1260 đã công bố chiến thắng ở Montaperti bằng âm thanh của trống và trống lục lạc.
Tôi đứng giữa cầu thang để đọc lại đoạn này. Nếu đây là sự thật, và nếu tôi không nhầm lẫn các tên tuổi trong nhật ký của danh họa Ambrogio, thì tòa nhà tôi đứng lúc này chính là lâu đài Marescotti, và đó chính là nhà của Romeo năm 1340.
Chỉ đến lúc nhiều người bực bội len qua tôi, tôi mới giũ bỏ sự ngạc nhiên và đi tiếp. Nếu đây là nhà Romeo thì sao? Chàng và tôi cách nhau gần bảy trăm năm, và nếu có trở lại thời ấy, chàng đã có Juliet. Bất chấp quần áo và đầu tóc mới mẻ, tôi vẫn chỉ là một cô gái cao, gầy, dáng đi vụng về, chẳng là gì so với sinh linh hoàn hảo thời đó.
Janice sẽ cười giễu những ý nghĩ mà nó cho là lãng mạn của tôi.
- Chúng tôi lại đến đây, - nó sẽ giễu cợt, - Julie đang mơ đến người đàn ông mà chị ấy không thể có. – Nó nói đúng. Nhưng thỉnh thoảng, đó là những ý nghĩ tốt đẹp nhất.
Nỗi ám ảnh kỳ lạ của tôi với những nhân vật trong lịch sử bắt đầu có từ khi tôi lên chín, với Tổng thống Jefferson. Trong lúc những người khách, kể cả Janice – dán đầy lên tường ảnh các ngôi sao nhạc pop phơi trần đến nửa người, phòng tôi là một điện thờ Người cha Sáng lập ưa thích của tôi. Tôi đã rất vất vả mới học được cách viết chữ Thomas bằng thư pháp, thậm chí tôi còn thêu một chữ T khổng lồ trên một cái gối để ôm mỗi tối, khi đi ngủ. Không may, Janice đã phát hiện ra cuốn sổ ghi chép bí mật của tôi và truyền khắp lớp, khiến cả lớp cười rú lên vì những bức tranh trưởng tượng, vẽ tôi đứng trước Monticello, mặc áo cưới, đeo mạng che mặt, tay trong tay với Tổng thống Jefferson rất vạm vỡ.
Sau đó, tất thảy đều gọi tôi là Jeff, kể cả các giáo viên dù họ không hiểu vì sao, và lạ thay, họ không bao giờ thấy tôi cau có, ngượng ngùng khi bị gọi như thế trong lớp. Rốt cuộc, tôi hoàn toàn không dám giơ tay phát biểu và luôn cúi gằm mặt ở hàng ghế sau, mong không ai chú ý đến mình.
Nhờ Umberto, hồi trung học tôi bắt đầu quan tâm đến thế giới cổ xưa. Trí tưởng tượng của tôi nhảy từ Leonidas của Sparta đến Spicio của La Mã, có thời gian cả Hoàng đế Augustus, cho đến khi tôi phát hiện ra khía cạnh ám muội của ông ta. Khi bước chân vào đại học, tôi thơ thẩn trở lại cái thời nhân vật của tôi là một người thượng cổ vô danh sống ở vùng thảo nguyên nước Nga, giết những con voi ma mút đầy lông lá và lủi thủi một mình dưới ánh trăng rằm, thổi những giai điệu của người thợ săn bằng cây sáo làm từ xương voi
Người duy nhất – tất nhiên là Janice – vạch ra rằng, tất cả những người trong mộng của tôi đều có chung một thứ. “Quá tệ”, nó đã nói vậy vào một đêm, lúc chúng tôi thử ngủ ở cái lều ngoài vườn và nó cố moi mọi bí mật của tôi, hết điều này đến điều khác, đổi lấy kẹo caramen vốn là của tôi, - “ vì tất cả bọn họ đều đã chết đứ đừ”
- Họ không chết! – Tôi phản đối, rất ân hận vì đã kể cho nó nghe những bí mật của mình. – Những người nổi tiếng sẽ sống mãi.
Nghe vậy, Janice chỉ khịt mũi:
- Có thể, nhưng ai mà muốn hôn một xác ướp kia chứ?
Tuy nhiên, phớt lờ những lời nói ấy, lúc này không chút tưởng tượng mà chỉ là một thói quen, tôi cảm thấy hơi ớn lạnh khi phát hiện ra mình đang lén theo bóng ma của Romeo trong nhà chàng. Với chúng tôi, thủ tục duy nhất để tiếp tục mối quan hệ đẹp đẽ này là chàng vẫn tiếp tục chết.
Eva Maria đang tiếp khách trong phòng hòa nhạc với một đám đàn ông mặc comple đen và đàn bà ăn vận lộng lẫy vây quanh. Căn phòng cao, trang trí màu trắng sữa và màu mật ong, hoàn tất bằng những nét chấm phá màu vàng. Khoảng hai trăm ghế dành cho khán giả, và theo số người đã tụ tập, chắc chắn là sẽ đầy khán phòng. Cuối phòng, các nhạc công đang lên dây đàn, một người phụ nữ to béo mặc đầm đỏ trông như bị ép phải hát. Phần lớn mọi chỗ ở Siena không hiện đại hơn nơi đây để làm nhức mắt thiên hạ, trừ bọn thanh thiếu niên bất trị đi dép lê và mặc quần xếp li.
Vừa thấy tôi bước vào, Eva Maria triệu tôi đến bằng cái vẫy tay vương giả. Lúc đến gần nhóm, tôi nghe thấy bà giới thiệu tôi bằng những lời phóng đại mà tôi không xứng, và trong giây lát tôi đã có những người bạn, một số là nhân vật tiếng tăm của nền văn hóa Siena, trong đó có chủ tịch nhà băng Monte dei Paschi ở lâu đài Salimbeni.
- Monte dei Paschi, - Eva Maria giải thích, - là quỹ bảo trợ lớn nhất cho các ngành nghệ thuật ở Siena, không thứ gì cô nhìn thấy quanh cô là không được Quỹ tài trợ.
Chủ tịch nhìn tôi, thoáng mỉm cười, vợ ông đứng sát bên cạnh, khoác tay ông cũng cười theo. Giống như Eva Maria, bà là một phụ nữ thanh lịch bất chấp tuổi tác, và mặc dù tôi ăn mặc chỉnh tề cho dịp này, cái nhìn của bà cho biết tôi vẫn còn phải học hỏi nhiều lắm. Bà còn thì thầm khá nhiều với chồng, hoặc có vẻ như thế.
- Vợ tôi nghĩ rằng cô không tin điều này, - chủ tịch nói, vẻ trêu chọc, giọng nói và ngữ điệu của ông như đang ngân nga lời một bài hát. – Có lẽ cô cho rằng chúng tôi quá…- ông tìm từ cho thích hợp, - kiêu ngạo chăng?
- Không phải đâu ạ, - tôi nói, má nóng bừng vì sự xét nét không ngừng của họ, - tôi chỉ thấy…ngược đời là tòa nhà của dòng họ Marescotti lại phụ thuộc vào thiện chí của dòng họ Salimbeni mới tồn tại được, vậy thôi.
Chủ tịch hiểu lập luận của tôi và khẽ gật đầu, dường như khẳng định sự phóng đại của Eva Maria là hợp lý.
- Phải, thật là một nghịch lý.
- Nhưng cuộc đời đầy những nghịch lý, - một giọng nói vang lên phía sau tôi.
- Allessandro! Chủ tịch gọi to, bất chợt vui vẻ và tinh quái, - anh phải đến đây và gặp signorina Tolomei. Cô ấy là người rất….nghiêm khắc với tất cả chúng ta. Nhất là với anh.
- Lẽ tất nhiên rồi. – Allessandro cầm tay tôi và hôn với vẻ chiều nịnh bông lơn. – Nếu cô ấy không thế, chúng ta sẽ không bao giờ tin cô ấy là một Tolomei.
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi trước khi buông tay tolomei.
- Chúng ta sẽ thế nào đây, cô Jacobs?
Một khoảnh khắc kỳ quặc. Rõ ràng Allessandro không ngờ lại chạm trán tôi ở buổi hòa nhạc, và phản ứng của anh không ương ứng với cả hai chúng tôi. Nhưng tôi không trách Allessandro đã tra hỏi tôi; và lại, tôi chưa gọi lại cho anh lần nào sau khi anh ghé qua khách sạn tôi ba ngày trước. Suốt thời gian này, danh thiếp của anh vẫn ở trên bàn tôi như một điềm xấu trong cái bánh đoán số phận. Cuối cùng, sáng hôm nay tôi đã xé nó làm đôi và ném vào sọt rác, hình dung rằng nếu Allessandro thực sự muốn bắt giữ tôi thì đã làm rồi.
- Con không thấy, - Eva Maria nói, hiểu lầm sự căng thẳng của chúng tôi, - tối nay Giulietta trông rất đáng yêu sao, Allessandro?
Allessandro gượng cười:
- Đẹp mê hồn.
- Đúng, đúng, - chủ tịch xen vào, - nhưng anh ở đây thì ai canh giữ tiền của chúng tôi, hở?
- Các bóng ma của dòng họ Salimbeni, - Allessandro đáp, vẫn nhìn thẳng vào mắt tôi. – Một sức mạnh rất ghê gớm đấy.
- Hư nào! – Thầm hài lòng vì lời lẽ của cậu con nuôi, Eva Maria giả vờ cau mày và đập nhẹ lên vai anh ta bằng tờ chương trình cuộn tròn. – Chẳng mấy nỗi tất cả chúng ta sẽ là những bóng ma thôi. Tối nay, chúng ta tôn vinh cuộc sống.
Sau buổi hòa nhạc, Eva Maria khăng khăng mời đi ăn tối, chỉ có ba chúng tôi. Khi tôi bắt đầu phản đối, bà nói toạc ra là sinh nhật bà và nói đêm nay thật đặc biệt “vì tôi được giở trang nữa trong vở hài kịch tuyệt diệu và ai oán của cuộc đời”, mong muốn duy nhất của bà là đến nhà hàng với hai người bà yêu quý. Lạ thay Allessandro không hề phản đối. Hiển nhiên là ỏ Siena, người ta không cãi mẹ đỡ đầu trong ngày của bà.
Nhà hàng ưa thích của Eva Maria ở đường Campane, ngay rìa lãnh địa Đại bàng. Bàn ưa thích của bà nằm trên nền cao ngoài trời, nhìn ra một cửa hàng hoa đóng cửa vào ban đêm.
- Thế ra, - bà nói với tôi, sau khi gọi một chai Prosecco và một đĩa antipasto, - cô không thích nhạc kịch!
- Tôi thích chứ! – Tôi phản đối và ngồi xuống,lúng túng, chân tôi bắt chéo vừa khít dưới gầm bàn. - Tôi yêu nhạc kịch. Quản gia của bà bác tôi lúc nào cũng diễn nhạc kịch. Nhất là vở Aida. Có điều…Aida được coi là công chúa của Etiopia, là một vưu vật chỉ bằng một phần ba tuổi năm mươi của bà ấy. Tôi xin lỗi.
- Hãy làm như Sandro. Nhắm mắt lại đi.
Tôi liếc nhìn Allessandro. Trong buổi hòa nhạc, anh ta ngồi sau tôi và tôi cảm thấy anh ta cứ dán mắt vào tôi suốt.
- Sao ạ? Nàng vẫn đang hát mà.
- Nhưng tiếng hát xuất phát từ tâm hồn! – Eva Maria ngả về phía tôi, nói hộ anh ta. – Chỉ cần lắng nghe, cô sẽ thấy Aida đúng như nàng.
- Thật rộng lượng. Tôi nhìn Allessandro. – Lúc nào anh cũng rộng lượng thế sao?
Allessandro không đáp. Anh ta không phải đáp lại.
- Hào hiệp là đức tính cao quý nhất trong mọi đức tính, - Eva Maria nói, bà thử một ngụm Prosecco và cảm thấy nó rất đáng đồng tiền. – Hãy tránh xa những người keo kiệt. Họ bị kẹt trong tâm hồn ti tiện.
- Theo quản gia của bà bác tôi, - tôi nói, - nhan sắc mới là phẩm chất cao quý nhất. Nhưng ông ấy cũng nói sự hào hiệp có giá trị gần như vẻ đẹp.
- Sự thật là cái đẹp, - cuối cùng, Allessandro nói. – Sự chân thật đẹp đẽ. Theo Keat đấy. Cuộc sống rất thanh thản nếu cô sống chân thật
- Anh thì không ư?
- Tôi không phải là một cái bình.
Tôi bật cười, nhưng anh ta chẳng hề nhếch mép.
Mặc dù muốn chúng tôi trở thành bạn bè, Eva Maria cũng không thể để chúng tôi tiếp tục theo kiểu đó.
- Cô hãy kể thêm về bà bác của cô đi! – Bà giục tôi. – Tại sao cô nghĩ bà không bao giờ kể cô là ai?
Tôi nhìn từ người này sang người kia, cảm thấy họ đã thảo luận về trường hợp của tôi, và không nhất trí với nhau.
- Tôi không biết. Tôi nghĩ có khi bà ấy sợ rằng…-Tôi nhìn xuống. – Tôi không biết nữa.
- Ở Siena, - Allessandro nói, bận bịu với cốc đồ uống, - tên cô sẽ làm cho mọi thứ khác hẳn.
- Tên tuổi, tên tuổi, tên tuổi! – Eva Maria thở dài. – Tôi không hiểu vì sao trước kia bà bác cô – bà Rosa phải không? – chưa bao giờ đưa cô đến Siena.
- Có lẽ bà ấy sợ rằng, - tôi nói, lần này rành mạch hơn, - kẻ giết cha mẹ tôi sẽ giết tôi.
Eva Maria ngồi thẳng dậy, kinh hoàng:
- Ý nghĩ thật khủng khiếp!
- Chúc mừng sinh nhật! –tôi nhấp một ngụm Prosecco. – Cảm ơn vì tất cả. – Tôi trừng trừng nhìn Allessandro, buộc anh ta phải nhìn vào mắt tôi. – Anh đừng lo, tôi sẽ không ở lại lâu đâu.
- Không, - anh ta nói, gật đầu dù chỉ một lần. – Tôi tưởng nơi này quá bình yên so với sở thích của cô.
- Tôi thích sự bình yên
Lúc này, tôi nhận thấy một thoáng cảnh giác âm thầm trong mày xanh biếc của mắt anh ta. Một cái nhìn lo âu.
- Hiển nhiên rồi.
Quyết không đáp lại, tôi nghiến chặt răng và chú ý đến món khai vị. Thật không may, Eva Maria không bắt được sắc thái tế nhị hơn trong cảm xúc của tôi, bà chỉ thấy mặt tôi ửng hồng.
- Sandro, - bà nói, hùa theo thứ mà bà ngỡ là tán tỉnh, - sao con không đưa Giulietta đi một vòng thành phố và chỉ cho cô ây một số thứ đẹp đẽ? Cô ấy sẽ thích đi xem.
- Con chắc cô ấy sẽ thích. – Allessandro xiên một quả ô liu nhưng không ăn. – Thật không may, chúng ta không có pho tượng nàng tiên cá nào.
Đến lúc này, tôi biết chắc anh ta đã kiểu tra hồ sơ về tôi và chắc hẳn đã tìm ra mọi thứ cần biết về Julie Jacobs – Julie Jacobs đã biểu tình phản chiến, từ Rome trở về rồi đến Copenhagen phản đối Đan Mạch dính líu đến Iraq, bằng cách phá hoại bức tượng nàng tiên cá.
Buồn thay, hồ sơ không cho anh ta biết rằng mọi chuyện này là nhầm lẫn, rằng Julie Jacobs chỉ đến Đan Mạch để chứng tỏ cho cô em gái biết rằng mình dám đương đầu thôi.
Nuốt thứ pha trộn giận dữ và sợ hãi đến chóng mặt vào cổ họng, tôi dò dẫm với tay đến giỏ bánh mì, hy vọng không lộ quá rõ sự hoảng sợ.
- Không, nhưng chúng tôi có nhiều pho tượng đẹp đẽ khách sạn! Eva Maria nhìn tôi, rồi nhìn Allessandro, cố hiểu việc đang diễn ra. – Và nhiều đài phun nước. Con có thể đưa cô ấy đến Fonterbrand…
- Có lẽ cô Jacobs thích nhìn thấy phố Malconteni, - Allessandro gợi ý, ngắt lời bà Eva Maria, -Đấy là nơi người ta thường dẫn phạm nhân, để các nạn nhân có thể ném đủ thứ vào người bọn chúng trên đường đến giá treo cổ.
Tôi trả miếng cái nhìn trừng trừng đầy hiềm thù của anh ta, cảm thấy không cần che giấu nữa:
- Không ai nhận được sự khoan hồng sao?
- Có. Gọi là bị trục xuất. Những người đó phải rời Siena và không bao giờ được trở lại. Để đền bù, cuộc sống của họ thường khá giả.
- Ồ, tôi hiểu, - tôi đập lại, cáu kỉnh, - giống như dòng họ Salimbeni của anh vậy. – Tôi liếc trộm Eva Maria, bà thay đổi, chết lặng. – Tôi nhầm chăng?
Allessandro không trả lời ngay. Nhìn các cơ trên quai hàm anh, tôi biết anh ta rất muốn phản ứng lại bằng lối tương tự, nhưng hiểu rằng không thể làm thế trước mặt mẹ đỡ đầu.
- Gia tộc Salimbeni, - cuối cùng anh ta nói, giọng căng thẳng, bị chính quyền sung công năm 1419 và buộc phải rời nước Cộng hòa Siena.
- Vĩnh viễn ư
- Rõ ràng là không. Nhưng họ bị trục xuất một thời gian dài. – Cách anh ta nhìn tôi cho biết hiện giờ đang nói về tôi. – Và chắc họ đáng bị thế.
- Nếu….họ trở lại thì sao?
- Lúc đàn ông…-Allessandro ngừng để gây ấn tượng, và tôi bàng hoàng nhận thấy màu xanh trong mắt anh ta không phải là màu tán cây tự nhiên, mà lạnh lẽo, và kết tinh giống mảnh malaxit, hồi lớp bốn tôi đã tưởng là thứ quý hiếm, trước khi thầy giáo giảng giải rằng đấy là một khoáng sản chiết ra đồng, có hại cho môi trường, - ắt họ phải có lý do chính đáng.
- Đủ rồi! – Eva Maria giơ cốc lên. –Không còn trục xuất nữa. Không còn đánh nhau nữa. Bây giờ chúng ta là bạn.
Chúng tôi cố chuyện trò lịch sự khoảng mươi phút nữa. Sau đó, Eva Maria xin lỗi vào nhà vệ sinh, để mặc Allessandro và tôi tự xoay xở. Liếc nhìn, tôi thấy anh ta đưa mắt khắp người tôi, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhất, tôi tin rằng mọi việc này chỉ là trò mèo vờn chuột, xem tôi có đủ hăng hái để làm bạn chơi trong một tuần không. Được, tôi tự nhủ, dù mèo có mưu mô gì đi nữa, rồi sẽ phải ngạc nhiên điếng người.
Tôi với một lát xúc xích.
- Anh có tin vào sự chuộc lỗi không?
- Tôi không quan tâm, - Allessandro nói, đẩy đĩa về phía tôi, - việc cô đã làm ở Rome. Hoặc ở bất cứ nơi nào khác. Nhưng tôi quan tâm đến Siena. Hay cho tôi biết, vì sao cô đến đây?
- Đây có phải là cuộc thẩm vấn không? – Tôi nói, miệng đầy thức ăn. – Tôi có nên gọi luật sư của tôi không?
Allessandro ngả người về phía tôi, hạ giọng:
- Tôi có thể tống cô vào tù như thế này này, - anh ta bật ngón tay đánh tách trước mũi tôi. – Đấy có phải là điều cô muốn không?
- Anh biết không, - tôi nói, xúc thêm thức ăn vào đĩa, và rất mong anh ta không chú ý đến bàn tay tôi đang run, những trò chơi quyền lực không bao giờ tác động tới tôi. Người ta có thể làm tổ tiên anh kinh ngạc, nhưng xin hãy nhớ lại, tổ tiên tôi chưa bao giờ có ấn tượng với thứ đó.
- Thôi được, - Allessandro dựa lưng vào ghế và thay đổi chiến thuật. – Thế này nhé: Tôi sẽ để mặc cô với một điều kiện. Cô hãy tránh xa Eva Maria.
- Sao anh không nói điều đó với bà ấy?
- Bà là một phụ nữ đặc biệt, và tôi không muốn bà đau khổ.
Tôi đặt dĩa xuỗng:
- Còn tôi thì sao? Anh nghĩ gì về tôi?
- Có thực cô muốn biết không? Allessandro lại nhìn tôi khắp lượt như tôi là một đồ tạo tác quá ư giá trị đem bán. – Thôi được. Tôi nghĩ cô xinh đẹp, thông minh….và là một diễn viên cừ khôi. – Thấy tôi bối rối, anh ta cau mày và nói tiếp, cứng rắn hơn, - tôi nghĩ có người trả cô nhiều tiền để cô tới đây và giả làm Giulietta Tolomei…
- Cái gì?
-…và một phần trong công việc của cô là tiếp cận Eva Maria. Nhưng đoán xem…tôi sẽ không để việc đó xảy ra.
Tôi không biết bắt đầu từ đâu. May thay, lời buộc tội của anh ta kỳ quái đến mức khiến tôi quá kinh ngạc nên không cảm thấy bị tổn thương. Cuối cùng, tôi nói:
- Vì sao anh không tin tôi là Giulietta Tolomei? Vì tôi không có đôi mắt xanh trẻ thơ ư?
- Cô muốn biết vì sao không? Tôi sẽ cho cô biết. – Anh ta nhoài tới trước, khuỷu tay chống lên bàn. – Vì Giulietta Tolomei đã chết.
- Vậy anh giải thích như thế nào việc tôi đang ngồi ngay tại đây? – Tôi vặn lại, cũng ngoài tới trước.
Anh ta nhìn tôi khá lâu để tìm kiếm gì đó trên mặt tôi song không thấy. Cuối cùng, Allessandro ngoảnh đi, môi mím chặt, và tôi biết vì lý do nào đó tôi không thuyết phục nổi anh ta, và chắc chẳng bao giờ thuyết phục nổi.
- Anh nên biết rằng, - tôi đẩy ghế và đứng dậy. – Tôi sẽ nhận lời anh và không bầu bạn với Eva Maria nữa. Nhờ anh cảm ơn bà ấy vì buổi hòa nhạc và bữa ăn và nói hộ là bà ấy có thể lấy lại quần áo bất cứ khi nào bà muốn. Tôi không cần tới chúng nữa rồi.
Tôi không đợi Allessandro trả lời, hiên ngang rời khỏi nhà hàng, không hề nhìn lại. Ngay khi rẽ góc phố đầu tiên và ra khỏi tầm nhìn, tôi cảm thấy những giọt nước mắt giận dữ dâng đầy, và không đếm xỉa đến đôi giầy, tôi bắt đầu chạy. Điều cuối cùng tôi muốn là Allessandro đuổi kịp và xin lỗi tôi vì sự thô lỗ của anh ta, lẽ ra anh ta nên cố là người như thế.
Đêm hôm ấy trên đường về, tôi bám vào những cái bóng và đường phố ít người qua lại. Lúc bước xuyên bóng tối, tôi hy vọng hơn là nhận thức được việc mình có đi đúng đường không, vì mải nghĩ đến cuộc tranh luận với Allessandro – và, cụ thể hơn, là những điều hay ho tôi có thể nói, nhưng đã không thốt nên lời – mất một lúc sau, tôi mới nhận ra mình bị bám đuôi.
Lúc đầu là một cảm giác kỳ quái vì bị theo dõi. Nhưng chẳng mấy chốc, tôi bắt đầu nhận ra những tiếng động yếu ớt của ai đó lén theo sau tôi. Mỗi khi tôi cố tiến nhanh về phía trước, tôi cảm nhận được tiếng sột soạt của quần áo và đế giầy mềm, nhưng nếu tôi đi chậm lại, tiếng sột soạt biến mất tôi chẳng nghe thấy gì ngoài sự yên lặng đáng lo ngại, càng ngày càng có vẻ nghiêm trọng hơn. Đột ngột rẽ xuống một đường phố hú họa, tôi có thể nhận ra chuyển động và bóng dáng một người đàn ông qua khóe mắt. Nếu tôi không nhầm, đó chính là gã đã theo tôi vài ngày trước, khi tôi rời nhà băng ở lâu đài và mang theo cái hộp của mẹ tôi. Rõ ràng với tôi, cuộc chạm trán trước đây là nguy hiểm, và lúc này, nhận ra hình thù và dáng đi ấy, cộng thêm tiếng còi báo động chói tai, gạt mọi ý nghĩ kiềm chế ra khỏi đầu, tôi tuột phắt đôi giầy và – lần thứ hai trong đêm ấy – tôi bắt đầu chạy.
Tim ta tới giờ yêu chưa nhỉ? Mắt ta ơi, hãy thề là chưa đi!
Vì ta chưa từng thấy nhan sắc thật sự nào cho đến đêm nay
--- --------oOo---- -------
Siena, 1340 Công Nguyên
Ban đêm khiến điều ác chín muồi.
Chẳng mấy chốc, Romeo và các anh em họ của chàng đã ra khỏi tầm nhìn của pháo đài Marescotti, họ lao vào một góc phố, nghẹn thở vì cười. Tối nay họ trốn khỏi nhà quá dễ dàng, vì lâu đài Marescotti đang rộn ràng khách khứa từ Bologna tới, và cha của Romeo, sĩ quan chỉ huy Marescotti bất đắc dĩ phải thết tiệc, có cả nhạc công tiêu khiển cho mọi người. Vả lại, Bologna đã khoản đãi họ, lẽ nào Siena không thể làm gấp mười?
Thừa biết là một lần nữa, họ lại vi phạm lệnh giới nghiêm của vị chỉ huy, Romeo và các anh em dừng lại, buộc dây mặt nạ hóa trang lòe loẹt mà họ thường đeo trong những cuộc phiêu lưu ban đêm. Lúc họ đứng đó, loay hoay buộc nút, thắt nơ, người bán thịt của gia đình đi qua, bưng một giỏ giăm bông cho bữa tiệc và một người giúp cầm đuốc, nhưng ông ta qua khôn ngoan, vờ như không nhận ra tốp thanh niên. Một ngày nào đó, Romeo sẽ là chủ nhân của lâu đài Marescotti và là người trả tiền cho những thứ ông ta cung cấp.
Khi đã đeo mặt nạ đâu vào đấy, tốp thanh niên đội lại mũ nhung, cố chỉnh làm sao cho khuôn mặt được che đi nhiều nhất. Cười rộng đến mang tai vì cảnh tượng của các bạn, một người trong bọn cầm cây đàn luýt mang theo và bật vài hợp âm vui vẻ: “Giu- hiu, hu, lietta” anh ta hát bằng giọng the thé, trêu đùa. “Ta sẽ là một con chi-i-i- của nàng, con chi - - im bé bỏng, tinh nghịch dâm đãng của nàng” – Anh ta nhảy vài bước lò cò như chim, khiến tất cả - trừ Romeo – nghẹn vì cười.
- Vui lắm đấy! –Romeo cáu kỉnh. – Cứ cười trên nỗi đau của ta, và ta sẽ cho các người biết tay!
- Đi thôi, - một người khác nói, hơi sốt ruột, - nếu chúng ta không nhanh lên, nàng sẽ đi nằm và bản dạ khúc của anh sẽ trở thành bài hát ru.
Nếu đàn ông bằng bước chân, cuộc hành trình tối nay của họ không dài, chỉ độ năm trăm sải. Nhưng nếu đàn ông bằng những thứ khác, thì đây là một cuộc phiêu lưu. Dù đã muộn, đường phố vẫn nhan nhản người – dân địa phương lẫn với người lạ, người mua kẻ bán, người hành hương với kẻ móc túi, - ở góc phố nào cũng có một nhà tiên tri đứng, tay cầm nến sáp, kết tội cõi trần gian nặng nhu cầu xác thịt, trong lúc hằm hè dán măt vào từng ả gái điếm đi qua vì phải kiềm chế, y hệt lũ chó thèm thuồng ngắm một dây dài xúc xích đung đưa. Họ phóng qua đường phố ngoằn nghèo, nhảy qua cái rãnh ở chỗ này, người ăn xin ở chỗ kia, chúi người tránh các quả bóng ném và các ghế kiệu, cuối cùng tốp thanh niên dừng lại biên rìa quảng trường Tolomei. Rướn người xem vì sao cả đám đông dứng im phăng phắc, Romeo thoáng thấy một thân hình ăn vận sặc sỡ đang nhấp nhô tới lui trong màn đêm tối tăm trên các bậc thềm nhà thờ San Cristoforo.
- Nhìn kìa! – Một người trong bọn nói. – Tolomei đã mời San Cristoforo đến ăn tối. Nhưng ông ta ăn vận chẳng bảnh bao gì lắm. Thật xấu hổ!
Cả bọn kinh sợ dõi theo đoàn người dưới ánh đuốc từ nhà thờ qua quảng trường tới lâu đài Tolomei, và Romeo chợt hiểu rằng đây là cơ hội cho chàng đàng hoàng bước thẳng vào tòa nhà bằng cửa trước, hơn là đứng loanh quanh một cách ngu ngốc dưới cửa sổ đoán chừng là của Giulietta. Một hàng dài những người tự cao tự đại theo sau các thầy tế cầm tượng thánh, tất thảy đều đeo mặt ná hóa trang. Thông thường, cứ vài tháng ngài Tolomei lại tổ chức vũ hội hóa trang để các bạn đồng minh bị trục xuất và những người nhà không coi trọng luật pháp lẻn vào nhà ngài. Nếu không làm thế, chắc chắn sàn nhảy sẽ không thể kín chỗ.
- Chúng tôi sẽ bị treo giò bằng các móng vuốt của số phận. – Romeo nói, lúc tập hợp đám anh em. – Hoặc là thế, hoặc số phận đang giúp chúng ta bằng cách dồn tất cả chúng ta vào chỉ trong khoảnh khắc và cười đắc thắng. Đi nào!
- Đợi đã! - Một người trong bọn nói. – Tôi sợ…
- Anh sợ quá sớm đấy! – Romeo cắt lời. – Nào, các quý ông cường tráng!
Sự lộn xộn trên các bậc thềm nhà thờ San Cristoforo chính là thứ Romeo cần, để lấy trộm một cây đuốc trên chòi canh và tìm bạn nhảy mà không bị ai nghi ngờ: một góa phụ trông có vẻ lớn tuổi hơn và không có bạn đi cùng lọt vào tầm ngắm.
- Xin mời, - chàng nói và giơ cánh tay. – Ngài Tolomei rất mong bảo đảm nguồn an ủi cho bà.
Người đàn bà hình như không hề phật ý với cánh tay cuồn cuộn cơ bắp đầy hứa hẹn của chàng và những nụ cười táo tợn của các bạn chàng.
- Đây là lần đầu tiên, - bà ta nói với vẻ trang trọng. – Nhưng tôi có thể nói, chắc ông ấy đang có nhiều sửa đổi.
Dường như là điều không thể với những người chưa nhìn thấy tận mắt, nhưng bước vào lâu đài của họ, Romeo phải kết luận rằng nhà Tolomei đã thực sự vượt xa sự lộng lẫy của nhà Marescotti. Mỗi bức tường là một câu chuyện về những chiến công lẫy lừng của Tolomei trong quá khứ và sự trung thành của Tolomei hiện tại, mà các mảng trần là những mạch chuyện tự phong là ngoan đạo. Nếu chỉ có một mình Romeo sẽ ngửa hẳn đầu lên và trố mắt ngắm nhìn vô vàn những sinh linh tuyệt đẹp khắp bầu trời riêng này. Nhưng không, đây còn có nhiều lính gác mặc chế phục, vũ trang đầy đủ đứng nghiêm dọc theo mỗi bức tường, và nỗi sợ bị phát hiện đủ để kìm hãm sự táo tợn của chàng, buộc chàng phải dành những lời ca ngợi cần thiết với góa phụ lúc họ xếp hàng để bắt đầu khiêu vũ.
Nếu như lúc trước, góa phụ có băn khoăn về thân phận thật của Romeo, thì bộ trang phục hảo hạng của chàng đã làm dịu phần nào thái độ hoài nghi của đám bạn bà, và đến lúc này, khi lấy tư thế để chuẩn bị khiêu vũ, phong thái của Romeo đã đoan chắc với bà dòng dõi quý tộc của chàng.
- Tối nay tôi thật may mắn, - bà ta lẩm bẩm, thận trọng để không ai nghe lỏm được, ngoài chàng. - - Nhưng hãy cho tôi biết, chàng tới đây với ý đồ đặc biệt gì trong đầu hay chỉ tới đây để …khiêu vũ?
- Xin thú thật, - Romeo nói trôi chảy, không hứa hẹn quá nhiều cũng không quá ít, - tôi mê khiêu vũ đến tội lỗi. Tôi xin thề có thể khiêu vũ nhiều giờ liền không nghỉ.
Người đàn bà cười dè dặt, thấy thỏa mãn ngay lập tức. Lúc bắt đầu khiêu vũ, bà ta có những cử chỉ tùy tiện quá mức chàng muốn, thỉnh thoảng bà lại lướt các ngón tay trên lớp áo nhung bên ngoài, tìm kiếm cái rắn chắc bên trong, nhưng Romeo đang mải nghĩ đến chuyện khác nên không né tránh bà. Tối nay, mối quan tâm duy nhất của chàng là tìm ra cô gái chàng đã cứu mạng, người có nét mặt đáng yêu được danh họa Ambrogio thể hiện trọn vẹn trên bức chân dung tuyệt diệu. Vị danh họa không cho chàng biết họ của nàng, nhưng không lâu sau, Romeo đã tự tìm ra. Cô gái tới chưa đầy một tuần lễ, tin đồn đã lan khắp thành phố rằng ngài Tolomei đưa một mĩ nhân lạ mặt có cặp mắt xanh thẳm như đại dương tên là Giulietta, đi lễ sáng Chủ nhật.
Nhìn quanh phòng lần nữa, - đầy những phụ nữ kiều diễm đang xoay tít trong những bộ váy áo rực rỡ, nam giới ở tư thế sẵn sàng đỡ lấy họ, - Romeo bối rối không hiểu vì sao không nhìn thấy cô gái đâu. Chắc chắn một bông hoa như thế sẽ truyền từ tay này sang tay khác, chẳng lúc nào rảnh rỗi mà ngồi; thử thách duy nhất là giải phóng nàng khỏi các chàng trai khác đang cầu khẩn sự chú ý của nàng. Trước đây Romeo đã gặp sự thách thức đó nhiều lần, và đó là một trò chơi mà chàng rất hứng thú. Kiên nhẫn luôn là nước cờ đầu tiên, giống như ông hoàng Hi Lạp trước bức tường thành Troy, kiên nhẫn và chịu đựng trong lúc các đối thủ khác lần lượt trở thành những kẻ lố bịch. Lúc đó sẽ là cuộc tiếp xúc đầu tiên, một nụ cười đượm vẻ trêu ghẹo, mưu mô cùng nàng chống lại cả bọn. Tiếp theo là một cái nhìn xuyên qua phòng, một cái nhìn đăm đăm, buồn rầu, nghiêm trang và ơn Chúa, cuối cùng, họ sẽ nắm tay trong một chuỗi các vũ điệu, trái tim nàng đập điên cuồng trong lồng ngực đến mức chàng có thể phát hiện ra những nhịp đập dồn trên cần cổ của nàng. Và ở đó, chính chỗ đó, sẽ là nơi chàng đặt nụ hôn đầu tiên….
Nhưng ngay cả sự kiên nhẫn theo phong cách Homere cũng không giúp ích được gì khi xung quanh hết vũ điệu này đến vũ điệu khác xoay mọi người tứ t
Thì hoa cũng vẫn ngạt ngào thơm hương
--- --------oOo---- -------
Phong cảnh nhìn từ pháo đài Fortezza cổ xưa rất ngoạn mục. Không chỉ vì tôi có thể nhìn thấy những mái nhà màu nâu đỏ của Siena bị nắng chiều hun nóng, mà còn vì những quả đồi cuồn cuộn, nhấp nhô quanh tôi giống như đại dương xanh lục và xanh lơ trải dài ít nhất hai chục dặm. Thình thoảng tôi ngước mắt khỏi thứ đang đọc, thu nhận phong cảnh bao quát, hy vọng đẩy hết không khí cũ ra khỏi phổi và rốt đầy mùa hè vào người. Cứ mỗi lần nhìn xuống và đọc tiếp nhật ký của danh họa Ambrogio, tôi lại chìm đắm vào những sự kiện đen tối của năm 1340.
Tôi mất cả buổi sáng ở quán cà phê của Malena ở quảng trường Postierla, giở qua các bản Romeo và Juliet xưa của Masuccio Salernitano năm 1476 và của Luigi Da Porto năm 1530. Thật thú vị khi thấy cốt truyện phát triển, Da Porto đã làm một cú huých trong văn chương với câu chuyện mà Salernitano khẳng định là dựa trên những sự kiện có thật.
Trong bản của Salernitano, Romeo và Juliet – hay đúng hơn, là Mariotto và Giannozza – sống ở Siena, nhưng cha mẹ họ không xung đột. Họ đã bí mật kết hôn sau khi mua chuộc một tu sĩ, nhưng kịch tính chỉ thực sự bát đầu khi Mariotto giết chết một công dân ưu tú và phải chịu cảnh lưu đầy. Trong khi đó, cha mẹ Giannozza – không hay biết con gái đã kết hôn – quyết định gả nàng cho người khác. Thất vọng, Giannozza nhờ tu sĩ chế một loại thuốc ngủ cực mạnh, tác dụng mạnh đến mức cha mẹ nàng ngỡ nàng đã chết và liền đem chôn. May thay, vị tu sĩ già tốt bụng đã cứu nàng khỏi hầm mộ, và Giannozza bí mật đi thuyền từ đó đến Alexandria, nơi Mariotto đang sống êm đềm. Song, người đưa tin có nhiệm vụ báo cho Mariotto về kế hoạch thuốc ngủ kia bị bọn cướp biển bắt giữ, nên khi nhận tin về cái chết của Giannozza, Mariotto lao về Siena để được chết bên nàng. Ở đây, chàng bị lính bắt và bị chém đầu. Còn Giannozza trải hết phần đời còn lại trong một nhà tu kín.
Tôi có thể thấy những yếu tố chủ chốt trong nguyên bản này là: cuộc kết hôn bí mật, Romeo bị trục xuất, kế hoạch uống thuốc ngủ liều lĩnh, người đưa tin bị lạc đường, Romeo chủ ý tự tử vì tưởng rằng Juliet đã chết thật.
Lẽ tất nhiên, những sự kiện quan trọng đều xảy ra ở Siena, và nếu Malena ở quanh quất đâu đây, tôi sẽ hỏi cô liệu đây có phải là kiến thức phổ cập không. Tôi rất ngờ là không.
Nửa thế kỳ sau, D Porto kể lại câu chuyện này rất hấp dẫn. Ông cũng hăm hở dựa vào các tình tiết có thật, tới mức gọi Romeo và Giulietta bằng tên thật của họ. Tuy vậy, ông tránh nêu địa danh, và chuyển toàn bộ câu chuyện đến Verona, thay đổi họ của các nhân vật, rất có thể để tránh sự báo thù của các thị tộc hùng mạnh liên quan đến vụ bê bối này.
Nhưng hãy chú ý đến các việc liên quan; theo cách hiểu của tôi, - có vài tách cà phê cappuccino trợ giúp, - Da Porto viết truyện thú vị hơn nhiều. Ông là người đưa ra ý tưởng về buổi vũ hội hóa trang và cảnh trên ban công, và tài năng thực sự của ông là đã nghĩ ra vụ tự tử kép. Điều duy nhất tôi không hiểu ngay là ông để Juliet chết bằng cách nín thở. Có lẽ D Porto cảm thấy khán giả không thích một cảnh đẫm máu…may mắn thay, Shakespeare không đắn đo quá ư thật trọng như thế.
Sau D Port, một người tên là Bandello cảm thấy buộc phải viết bản thứ ba và thêm thắt nhiều cuộc đối thoại sướt mướt mà không sửa đổi bản chất của cốt truyện. Nhưng từ đó, câu chuyện đã được người Ý hoàn tất, và nó đi lang thang, trước tiên đến Pháp, rồi đến Anh cuối cùng nằm trên bàn của Shakespeare và trở nên bất hủ.
Theo tôi hiểu, sự khác biệt lớn nhất giữa các nguyên bản đầy chất thơ này với nhật ký của danh họa Ambrogio là trong thực tế, có ba gia đình dính dáng chứ không phải hai. Dòng họ Tolomei và Salimbeni có mối thù truyền kiếp – được gọi là Capulets và Montagues – trong khi Romeo thực ra thuộc gia đình Marescotti và là người ngoài. Về mặt này, bản của Salernitano chính xác nhất, câu chuyện xảy ra ở Siena, và không hề nhắc tới mối cừu hận gia đình nào.
Sau đó, trên đường từ Forrtezza về, áp chặt cuốn nhật ký của Ambrogio vào ngực, tôi nhìn những con người vui vẻ quanh mình và một lần nữa cảm thấy bức tường vô hình giữa tôi và họ. Họ đi, chạy, ăn kem, không dừng lại tìm hiểu quá khứ, không như tôi, bị đè nặng cảm giác mình không hoàn toàn thuộc về thế giới này.
Buổi sáng hôm đó, tôi đứng trước tấm gương trong buồng tắm, đeo cái dây chuyền có cây thánh giá bạc trong hộp của mẹ, và quyến định từ nay sẽ đeo nó. Rốt cuộc, nó là đồ của mẹ tôi, và được để lại trong hộp, rõ ràng có ý dành cho tôi. Không hiểu vì sao, tôi tin nó sẽ che chắn cho tôi khỏi lời nguyền khiến bà từ giã cõi đời lúc còn quá trẻ.
Tôi mất trí chăng? Có lẽ thế. Nhưng, có nhiều loại mất trí khác nhau. Bà Rose luôn cho rằng cả thế giới này đang trong tình trạng điên rồ, không ngừng dao động thất thường, chứng loạn thần kinh chức năng không phải là một bệnh, nhưng là một thực tế của cuộc đời, như mụn nhọt vậy. người nhiều, người ít, nhưng đúng là chỉ những người khác thường mới không điên tí nào. Các triết lý thản nhiên này đã an ủi tôi nhiều lần trước đây và lúc này cũng vậy.
Lúc tôi về đến khách sạn, giám đốc Rossini đến thẳng chỗ tôi như một người đưa tin từ Marathon nóng lòng báo cho tôi biết:
- Cô Tolomei! Cô ở đâu thế? Cô phải đi ngay! Ngay bây giờ! Nữ bá tước Salimbeni đang đợi cô ở cung điện Pubblico! Đi đi, - ông xua tôi như người ta xua một con cún đang quanh quẩn tìm đồ ăn thừa, - cô không được để bà ấy đợi!
- Đợi ư? – Tôi chỉ vào hai vật nằm giữa sàn, đập ngay vào mắt. – Kia là vali của tôi!
- Vâng – vâng – vâng, chúng vừa được mang đến lúc nãy.
- Vậy tôi phải lên phòng và…
- Không! – giám đốc Rossini mở toang cửa trước và vỗ tay ra hiệu tôi chạy qua. – Cô phải đi ngay bây giờ!
- Tôi còn chưa biết nơi tôi sắp đến!
- Santa Caterina! – Mặc dù tôi biết ông thầm vui vì lại có dịp mở mang kiến thức cho tôi về Siena, giám đốc Rossini tròn mắt và vẫn giữ cửa. – Lại đây, tôi sẽ vẽ đường cho cô!
Vào Campo giống như bước vào một vỏ trai khổng lồ. Viền quanh mép là các khách sạn hiệu cà phê; đúng chỗ có viên ngọc, ở phần dưới cùng của một quảng trường dốc là cung Pubblico, được dùng làm tòa thị chính Siena từ thời Trung cổ. Tôi dừng lại một lát, thấm thía tiếng vang của nhiều giọng nói dưới vòm trời xanh lơ, những con bồ câu đập cánh khắp nơi, một đài bằng đá hoa trắng phun nước màu lam, cho đến lúc một đoàn du khách dồn đến sau tôi và cuối tôi đi, lao tới trước, kinh ngạc thích thú vì sự nguy nga, lộng lẫy của quảng trường khổng lồ.
Trong lúc viết hướng dẫn, giám đốc Rossini đoan chắc với tôi rằng Campo được coi la quảng trường đẹp nhất trong toàn cõi Italy, không chỉ dân Siena nghĩ thế. Thực ra, ông kể chi tiết vô số dịp các vị khách từ khắp nơi trên thế giới – kể cả từ Florence – đổ tới chỗ này và tán tụng vẻ duyên dáng của Campo. Lẽ tất nhiên, ông phản đối và chỉ ra nét huy hoàng của những nơi khác – chắc chắn là có ở mọi nơi, - nhưng dân chúng lắng nghe một cách miễn cưỡng, Họ khăng khăng cho rằng Siena là thành phố đẹp nhất, nguyên vẹn nhất trên Trái đất, và đứng trước niềm tin mãnh liệt như thế, lẽ nào giám đốc Rossini không cho rằng đúng là như vậy?
Tôi nhét tờ chỉ dẫn vào túi sách và khởi hành xuống cung Pubblico. Khó mà bỏ qua tòa tháp chuông Mangia cao vút, công trình mà Rossini đã miêu tả tỉ mỉ đến mức mất vài phút, tôi mới hiểu rằng nó không dựng đứng trước mặt ông mà ở khoảng nào đó cuối thời Trung cổ. Ông gọi nó là một bông huệ, một tượng đài kiêu hãnh tôn vinh sự thanh khiết của phụ nữ bằng một bông hoa đá trắng muốt trên cuống hoa màu đỏ. Và kỳ lạ thay, nó được xây dựng không có nền. Ông khẳng định tháp Mangia đã đứng đó hơn sáu trăm năm, vững vàng nhờ ân huệ của Chúa và niềm tin tuyệt đối.
Tôi giơ tay che nắng và ngắm ngọn tháp như vươn lên, chống đỡ bầu trời vô hạn. Tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác, sự thanh thiết của phụ nữ được tôn vinh bằng một biểu tượng dương vật xấp xỉ 110m. Nhưng có khi chỉ là tôi nghĩ thế.
Toàn bộ công trình – cung điện Publlico và tòa tháp – có sức nặng hoàn toàn theo nghĩa đen, vì dường như bản thân Campo bẹp rúm dưới trọng lượng của nó. Để Rossini nói rằng, nếu nghi ngờ, tôi cứ hình dung rằng có một quả bóng và đặt nó lên mặt đất. Dù tôi đứng ở đâu trên Campo, quả bóng cũng lăn tuột xuống tới lâu đài Pubblico. Hình ản này rất cuốn hút tôi. Có lẽ là ý nghĩ về một quả bóng nẩy trên hè đường gạch cổ xưa. Hay có khi chỉ vì cách ông phát âm từng từ, thì thào rất kịch tính, giống một thầy phù thủy nói chuyện với đứa trẻ lên bốn.
Lâu đài Pubblico giống như mọi chính thể, phát triển theo năm tháng. Khởi thủy, nó chỉ là một phòng họp dành cho chính nhà quản lý, nay là một cấu trúc lừng lẫy, và tôi bước vào sân trong với cảm giác đang bị theo dõi. Tôi tin là không hẳn bởi những người xung quanh mà bởi bóng dáng rơi rớt của các thế hệ quá khứ, những thế hệ đã dâng hiến sinh mạng cho thành phố này, vì mảnh đất nhỏ bé này là nơi các thành phố và cả vũ trụ đổ tới.
Eva Maria đợi tôi trong đại sảnh Peace. Bà ngồi trên chiếc ghế dài giữa phòng, ngước nhìn lên không trung, dường như đang lặng lẽ trò chuyện với Chúa. Nhưng tôi vừa bước qua cửa, bà quay phắt lại, và nụ cười vui thích nở rộng trên môi bà.
- Rốt cuộc cô đã tới!- Bà kêu lên, rồi đứng dậy và hôn lên hai má tôi. – Tôi bắt đầu thấy lo lắng.
- Xin lỗi vì để bà phải đợi. Tôi không biết là….
Nụ cười của bà xua tan tất cả những gì tôi có thể nói.
- Giờ thì cô ở đây rồi. Đấy mới là điều quan trọng. Nhìn này, - bà làm một cử chỉ bao quát vào các bích họa khổng lồ phủ kín các bức tường trong căn phòng. –Cô đã từng thấy thứ gì kỳ diệu như thế này chưa? Danh họa Ambrogio Lorenzetti vĩ đại của chúng tôi vẽ vào cuối những năm 1330. Chắc ông vẽ xong bức này, bên trên các cánh cửa, vào năm 1340. Bức đó tên là Quyền lực tối cao
Tôi quay nhìn bức bích họa nói trên. Nó phủ kín toàn bộ chiều dài bức tường, và muốn vẽ được nó, phải có nhiều cơ cấu phức tạp như thang, giàn giáo, có lẽ cả những bục treo từ trần xuống. Nửa bên trái miêu tả khung cảnh một thành phố thanh bình, với các cư dân hiền lành đang bận bịu công việc của họ; nửa bên phải là quang cảnh thoáng đãng của vùng thôn quê bên ngoài tường thành. Lúc đó, một ý nghĩ chợt lóe lên trong tôi, và tôi nói, lắp bắp:
- Bà nói là …danh họa Ambrogio ?
- Đúng thế, - Eva Maria gật đầu, không mảy may ngạc nhiên vì tôi có vẻ quen cái tên ấy. – Ông là một trong những danh họa vĩ đại nhất. Ông vẽ các cảnh này để ca ngợi sự chấm dứt hận thù giữa hai gia tộc Tolomei và Salimbeni. Cuối cùng, năm 1339, sự thể đã bình yên.
- Thật sao? – Tôi nghĩ đến cảnh Giulietta và tu sĩ Lorenzo chạy trốn bọn cướp Salimbeni trên đường cái bên ngoài Siena. – Tôi có cảm tưởng là năm 1340, tổ tiên chúng ta vẫn còn xung đột rất nhiều. Chắc là ở vùng thôn quê.
Eva Maria mỉm cười khó hiểu; hoặc bà hài lòng vì thấy tôi chịu khó nghiên cứu các truyền thuyết về gia tộc, hoặc bà phật ý vì tôi dám cãi lại bà. Nếu có mếch lòng, bà vẫn tỏ ra tao nhã để chấp nhận ý kiến của tôi, và nói:
- Cô nói đúng. Hòa bình có những hiệu ứng không lường trước được. Nó xảy ra ở bất cứ nơi nào bọn quan liêu lừng chừng, không giúp chúng ta. – Bà giơ cao hai tay. – Nếu dân chúng muốn đấu tranh, không thể ngăn họ được. Nếu ngăn chặn họ bên trong thành phố, họ sẽ chiến đấu ở vùng nông thôn, và ở đó, họ tha hồ tung hoành. Chí ít thì ở bên trong Siena, các cuộc bạo loạn thường bị dập tắt trước khi chúng vượt tầm kiểm soát. Vì sao?
Bà nhìn tôi, xem tôi có đoán ra không, nhưng lẽ tất nhiên, tôi không thể.
- Bởi vì, - bà nói tiếp, dứ ngón tay trước mũi tôi ra vẻ dạy dỗ. - ở Siena lúc nào chúng tôi cũng có quân đội. Muốn giữ gia tộc Salimbeni và Tolomei trong tầm kiểm soát, các công dân của Siena bị huy động và các đại đội của họ có thể tràn ra đường phố chỉ trong vòng vài phút. – Bà gật đầu khẳng định, tự tán thành. – Tôi tin rằng chính vì thế, ở đây truyền thống về lãnh dịa mới mạnh đến thế, kể cả hiện nay. Sự tận tụy của quân đội địa phương cũng có thể tạo nên nước cộng hòa Siena về cơ bản. Muốn kiểm soát những kẻ xấu, phải chắc chắn rằng người tốt đều được vũ trang.
Tôi mỉm cười vì kết luận của bà cố hết sức tỏ ra không hay biết gì. Giờ không phải lúc nói với Eva Maria rằng tôi không tin vào vũ khí vì theo kinh nghiệm của tôi, những người được gọi là tốt chẳng hơn gì kẻ xấu.
- Không đẹp sao? – Eva Maria tiếp tục và hất đầu về phía bức bích họa. – Một thành phố thanh bình với mọi cảnh tượng?
- Tuy vậy, tôi phải nói rằng trông dân chúng không mấy vui vẻ. Bà nhìn xem. – tôi nói, và chỉ vào một cô gái dường như bị kẹt giữa một tốp các thiếu nữ đang nhảy múa. – Hình như cô gái này ….đang suy nghĩ miên man.
- Có khi nàng nhìn thấy một đám cưới diễu qua? – Eva Maria gợi ý, hất đầu về ảnh vẽ một doàn người đi sau một hình vẽ trông giống cô dâu cưỡi ngựa. – Có khi nàng nhớ đến tình yêu đã mất chăng?
- Nàng nhìn vào cái trống. – Tôi nói và lại chỉ, - hoặc cái trống lục lạc. Còn những vũ công khác trông…thật độc ác. Nhìn cái kiểu họ dồn nàng kẹt trong điệu múa. Một người trong bọn họ đang nhìn chằm chặp vào vào bụng nàng. – Tôi liếc nhìn bà, nhưng khó mà dò đoán được vẻ mặt của bà. – Hoặc có lẽ tôi chỉ tưởng tượng ra thôi.
- Không, - bà nói khẽ, - rõ ràng danh hoạ Ambrogio muốn chúng ta chú ý đến này. Ông vẽ tốp phụ nữ đang nhảy múa này to hơn những người khác trong bức tranh. Nếu cô nhìn kỹ, sẽ thấy nàng là người duy nhất có tiara (CT: một thứ trang sức của phụ nữ hình lưỡi liềm, gắn châu báu, thường đội vào những dịp nghi lễ.) trên mái tóc
Tôi liếc nhìn và thấy bà nói đúng.
- Vậy, nàng là ai? Chúng ta có biết không?
Eva Maria nhún vai:
- Công khai thì không. Nhưng riêng cô với tôi thì, - bà ngả người về phía tôi và hạ thấp giọng, - tôi nghĩ nàng là tổ tiên của cô. Tên nàng là Giulietta Tolomei.
Tôi choáng váng nghe thấy bà gọi tên – tên của tôi – và nói rõ ràng, chính xác ý nghĩ tôi đã thổ lộ với Umberto qua điện thoại, đến mức giấy lát sau, tôi buột miệng hỏi một câu tự nhiên:
- Sao bà biết? ….Ý tôi nói là, nàng là tổ tiên của tôi?
Eva Maria suýt bật cười:
- Điều đó chẳng hiển nhiên lắm sao? Tại sao mẹ cô đặt tên cô theo tên nàng? Thực ra, chính bà đã kể với tôi rằng, cô là dòng dõi huyết thống trực hệ từ Giulietta và Giannozza Tolomei.
Tôi rùng mình khi nghe câu này – nói ra với sự đoán chắc như thế - và tôi không thể xử lý thông tin ngay lập tức.
- Tôi không biết bà quen mẹ tôi, - tôi nói, tự hỏi vì sao bà không kể điều này với tôi từ trước.
- Mẹ cô đã đến thăm tôi một lần. Cùng với cha cô. Trước khi họ cưới. – Eva Maria ngừng lời. – Bà còn rất trẻ. Trẻ hơn cô. Bữa tiệc đó có khoảng một trăm khách mời, chúng tôi dành suốt buổi tối hôm ấy trò chuyện về dah họa Ambrogio. Chính họ kể cho tôi những điều tôi nói với cô bây giờ. Họ rất am hiểu, rất quan tâm đến các gia tộc của chúng ta. Thật buồn khi sự việc lại ra nông nỗi này.
Chúng tôi đứng lặng một lát. Eva Maria nhìn tôi, gượng cười, dường như bà biết một câu hỏi đang cháy bỏng trên đầu lưỡi tôi, nhưng tôi không thể hỏi, đó là “Quan hệ của mẹ tôi – nếu có – với gã Luciano Salimbeni xấu xa ấy là gì, và bà biết gì về cái chết của cha mẹ tôi?”
- Cha cô tin rằng, - Eva Maria nói tiếp, không để tôi kịp hỏi, - danh họa Ambrogio ám chỉ một câu chuyện trong bức tranh này. Một thảm kịch xảy ra trong thời của ông ấy, và không thể bàn tán công khai. Nhìn này, - bà chỉ bức bích họa, - cô có nhìn thấy cái lồng chim xinh xắn ở cửa sổ tít trên kia không? Nếu tôi bảo cô rằng tòa nhà đó là lâu đài Salimbeni, và người đàn ông cô thấy ở bên trong chính là Salimbeni, được tôn vinh như một ông vua, trong khi những người kia cúi rạp bên chân ông ta để vay tiền?
Cảm thấy câu chuyện dù sao cũng làm bà đau đớn, tôi mỉm cười với Eva Maria, quyết không để quá khứ len vào giữa chúng tôi.
- Nghe chừng bà không tự hào vì ông ấy lắm.
Bà nhăn mặt:
-Ồ, ông ấy là một người vĩ đại. Nhưng danh họa Ambrogio không ưa ông ta. Cô không thấy sao? Nhìn xem…một đám cưới…một thiếu nữ buồn bã nhảy múa và, một con chim trong lồng. Cô nghĩ sao về những thứ đó?
Thấy tôi không trả lời ngay, bà nhìn ra ngoài cửa số.
- Cô biết không, khi tôi lấy Salimbeni, tôi mới hai mươi hai tuổi. Ông ta sáu mươi tư. Cô có nghĩ thế là già không?
Bà nhìn thẳng vào tôi, cố đọc ý nghĩ của tôi
- Không hẳn vậy, tôi nói. – Bà biết đấy, mẹ tôi….
- Phải, tôi biết, - Eva Maria ngắt lời tôi. – Tôi cho rằng ông ấy rất già và sẽ chết sớm. Nhưng ông ấy giàu có. Tôi có một ngôi nhà đẹp. Cô phải đến thăm nhà tôi, nhé.
Lời thú nhận thẳng thắn và lời mời của bà làm tôi lúng túng, tôi chỉ nói:
- Nhất định rồi, tôi thích thế.
- Tốt lắm! – Bà đặt bàn tay lên vai tôi. – Bây giờ cô phải tìm ra nhân vật nam chính trong bức bích họa!
Tôi suýt cười phá lên. Eva Maria Salimbeni là một bậc thầy đích thực trong nghệ thuật thay đổi chủ đề.
- Tìm đi, - bà nói, như cô giáo nói với một lớp toàn những học trò lười, - Người ấy đâu? Lúc nào cũng có một nhân vật chính. Hãy nhìn lên bức bích họa.
Tôi chăm chú ngước nhìn.
- Kia có thể là ai đó.
- Nhân vật nữ ở trong thành phố, - bà nói và chỉ, - trông rất buồn bã. Vậy nhân vật nam là…? Nhìn kia! Bên trái cô là cảnh sinh hoạt bên trong những bức tường thành. Rồi cô có Porta Romana, cổng thành phía Nam, cắt bức bích họa ra làm đôi. Còn bên tay phải là…
- Ồ, bây giờ tôi nhìn thấy rồi, - tôi nói, - anh chàng cưỡi ngựa, đang rời thành phố.
Eva Maria mỉm cười, không phải nói với tôi, mà với bức bích họa.
- Chàng điển trai không nào?
- Cực kỳ. Có gì trên mũ kia?
- Chàng là người đi săn. Nhìn chàng đi. Chàng có một con chim mồi và định thả nó ra, nhưng có cái gì đó giữ chàng lại. Còn một người đàn ông khác, ngăm ngăm đen hơn, đi bộ, xách hộp của họa sĩ, đang cố kể gì đó cho chàng, và nhân vật nam trẻ tuổi của chúng ta ngả người trên yên lắng nghe.
- Có lẽ người đi bộ kia muốn chàng ở lại trong thành phố? – Tôi gợi ý.
- Có lẽ. Nhưng liệu có xảy ra chuyện gì với chàng không, nếu chàng ở lại? Nhìn xem Ambrogio vẽ gì bên trên đầu chàng. Giá treo cổ. không phải là một lựa chọn dễ chịu, nhỉ? – Eva Maria mỉm cười. – Cô nghĩ chàng là ai nào?
Tôi không trả lời ngay. Nếu danh họa Ambrogio vẽ bức bích họa này với danh họa Ambrogio trong cuốn nhật ký tôi đang đọc là một, nếu người phụ nữ đang nhảy múa không vui vẻ, cài tiara trên tóc kia thực sự là tổ tiên của tôi, Giulietta Tolomei, thì người đàn ông cưỡi ngựa kia chỉ có thể là Romeo Marescotti. Nhưng tôi không muốn Eva Maria biết những phát hiện gần đây của tôi, cũng như nguồn gốc của chúng. Vả lại, bà là một Salimbeni. Vì thế, tôi chỉ nhún vai và nói:
- Tôi không biết.
- Nếu tôi bảo cô rằng, - Eva Maria nói, - đấy là Romeo trong vở Romeo và Juliet? Và tổ tiên của cô, Giulietta chính là nàng Juliet của Shakespeare
Tôi nín cười:
- Chuyện ấy chẳng bắt đầu ở Verona sao? Và Shakespeare đã sáng tác ra họ? Trong Shakespeare đang yêu…
Shakespeare đang yêu! Eva Maria nhìn tôi, dường như hiếm khi bà nghe thấy một điều kinh sợ đến thế. – Giulietta, - bà đặt tay lên má tôi, - hãy tin tôi khi tôi nói rằng câu chuyện ấy xảy ra ở đây, ở Siena này. Từ rất, rất lâu trước thời Shakespeare. Và họ ở đây, trên kia, trên bức tường này. Romeo bị lưu đầy, còn Juliet chuẩn bị kết hôn với một người nàng không yêu. – Bà mỉm cười vì vẻ mặt tôi, cuối cùng, bà buông tôi ra. – Cô đừng lo. Khi cô đến thăm tôi, chúng ta sẽ nói thêm về những chuyện buồn này. Cô định làm gì tối nay?
Tôi lùi lại một bước, mong che giấu sự sửng sốt vì quan hệ mật thiết của bà với gia đình tôi.
- Dọn dẹp ban công của tôi.
Eva Maria không bỏ lỡ thế chủ động
- Khi cô xong việc, tôi muốn cô cùng tôi nghe một buổi hòa nhạc rất hay. Đây…- Bà thọc tay vào xắc và rút ra tấm vé. – Đây là một chương trình tuyệt vời. Tôi đích thân chọn. Nhất định cô sẽ thích. Lúc bảy giờ. Sau đó, chúng ta đi ăn tối, và tôi sẽ kể cho cô nhiều hơn về tổ tiên cô.
Ngày hôm đó khi đến phòng hòa nhạc, tôi cảm thấy bứt rứt trong lòng. Đó là một tối đẹp trời, thành phố rộn rã vì những con người vui vẻ, nhưng tôi vẫn không thể chia sẻ niềm vui với họ. Rảo bước xuống phố, nhìn mà chẳng thấy gì ngoài vỉa hè trước mặt, dần dần tôi có thể xác định được nguyên nhân dẫn đến sự bực bội của mình.
Tôi đang bị lôi kéo.
Kể từ lúc đến Siena, mọi người đều thấp thỏm dặn tôi phải làm gì và nghĩ gì. Eva Maria là người hơn hết thảy. Hình như bà thấy thật tự nhiên khi những mong muốn và dự định kỳ quái của bà sai khiến được hành động của tôi – kể cả việc ăn mặc – và giờ đây, bà thao túng cả suy nghĩ của tôi. Giả sử tôi không muốn thỏa luận với bà về những sự kiện năm 1340 thì sao? Ờ không được, vì tôi không còn lựa chọn nào khác. Và thật lạ lùng, tôi vẫn mến bà. Tại sao lại thế nhỉ? Vì bà hoàn toàn trái ngược với bà Rose, là người luôn e sợ làm điều sai trái đến mức không bao giờ làm việc gì cho đúng ư? Hoặc tôi thích Eva Maria vì tôi không có bổn phận gì với bà? Biết tin này, chắc Umberto sẽ phát hoảng, và nhất định bảo tôi phải tránh cho xa bọn Salimbeni. Tôi đoán đây là tình trạng của Juliet. Phải, có lẽ đây là lúc cho Juliet có suy nghĩ lý trí. Theo chủ tịch Maconi, Salimbeni luôn là Salimbeni, và theo ông anh họ Peppo của tôi, thật tai họa cho bất cứ người nào thuộc họ Tolomei nếu cản trở chúng. Điều này không chỉ đúng với thời Trung cổ đầy sóng gió, mà ngay cả bây giờ, ở Siena hiện tại, bóng ma của kẻ giết người Luciano Salimbeni vẫn chưa rời bỏ nơi này. Nói khác đi, có lẽ đây là loại định kiến khiến mối thù truyền kiếp cổ xưa vẫn tiếp diễn qua bao thế hệ. Nhỡ gã Luciano Salimbeni khó hiểu kia chưa bao giờ đụng đến cha mẹ tôi, mà chỉ bị nghi ngờ do tên tuổi của gã? Không lạ gì nếu gã phải xa lánh người khác. Ở nơi bạn bị mọi người cho là kẻ có tội, đao phủ của bạn sẽ chẳng thích thú gì việc kiên nhẫn ngồi đợi hết phiên tòa.
Nói tóm lại, càng nghĩ về việc này, cán cân của tôi càng nghiêng về phía Eva Maria. Hơn nữa, hình như bà là người kiên quyết nhất chứng tỏ rằng, bất chấp mối hận thù của tổ tiên, chúng tôi vẫn có thể là bạn bè. Nếu thực như thế, tôi không muốn phá tung mọi sự.
Buổi hòa nhạc tối do Nhạc viện Chigiana đăng cai tổ chức tại lâu đài Chigi- Saracini, đối diện với hiệu uốn tóc của anh bạn Luigi. Tôi vào tòa nhà qua cái cổng mái, nổi bật trong một cái sân có hành lang ngoài bao quanh và một cái giếng cổ ở giữa. Tôi tự nhủ, các hiệp sĩ trong giáp phục sáng ngời từng kéo nước ở giếng này cho ngựa chiến của họ, và dưới đôi giầy cao gót của tôi là những tảng đá lát nền mòn nhẵn vì móng ngựa và bánh xe qua bao thế kỷ. Nơi này không quá lớn cũng không quá đường bệ, có một vẻ trang trọng lặng lẽ khiến tôi tự hỏi những sự việc diễn ra ngoài bức tường của cái sân không chịu ảnh hưởng của thời gian này liệu có ý nghĩa thực sự không.
Lúc tôi đứng đó, ngẩn người vì bức bích họa trên trần hành lang kín đáo, người dẫn chỗ đưa cho tôi một cuốn sách mỏng và chỉ cửa lên phòng hòa nhạc. Trong lúc trèo lên cầu thang, tôi liếc nhìn cuốn sách, tưởng là ghi chương trình. Nhưng đó là tóm tắt lịch sử của tòa nhà, bằng vài thứ tiếng khách nhau. Phần tiếng Anh bắt đầu bằng:
Lâu đài Chigi-Saracini, một trong những lâu đài đẹp nhất của Siena, ban đầu thuộc gia tộc Marescotti. Trung tâm của tòa lâu đài rất cổ, nhưng trong thời Trung cổ, gia tộc Marescotti đã hợp nhất với các tòa nhà lân cận, và giống như nhiều gia tộc hùng mạnh khác ở Siena, họ bắt đầu xây dựng một tòa tháp đồ sộ. Từ tòa tháp này, năm 1260 đã công bố chiến thắng ở Montaperti bằng âm thanh của trống và trống lục lạc.
Tôi đứng giữa cầu thang để đọc lại đoạn này. Nếu đây là sự thật, và nếu tôi không nhầm lẫn các tên tuổi trong nhật ký của danh họa Ambrogio, thì tòa nhà tôi đứng lúc này chính là lâu đài Marescotti, và đó chính là nhà của Romeo năm 1340.
Chỉ đến lúc nhiều người bực bội len qua tôi, tôi mới giũ bỏ sự ngạc nhiên và đi tiếp. Nếu đây là nhà Romeo thì sao? Chàng và tôi cách nhau gần bảy trăm năm, và nếu có trở lại thời ấy, chàng đã có Juliet. Bất chấp quần áo và đầu tóc mới mẻ, tôi vẫn chỉ là một cô gái cao, gầy, dáng đi vụng về, chẳng là gì so với sinh linh hoàn hảo thời đó.
Janice sẽ cười giễu những ý nghĩ mà nó cho là lãng mạn của tôi.
- Chúng tôi lại đến đây, - nó sẽ giễu cợt, - Julie đang mơ đến người đàn ông mà chị ấy không thể có. – Nó nói đúng. Nhưng thỉnh thoảng, đó là những ý nghĩ tốt đẹp nhất.
Nỗi ám ảnh kỳ lạ của tôi với những nhân vật trong lịch sử bắt đầu có từ khi tôi lên chín, với Tổng thống Jefferson. Trong lúc những người khách, kể cả Janice – dán đầy lên tường ảnh các ngôi sao nhạc pop phơi trần đến nửa người, phòng tôi là một điện thờ Người cha Sáng lập ưa thích của tôi. Tôi đã rất vất vả mới học được cách viết chữ Thomas bằng thư pháp, thậm chí tôi còn thêu một chữ T khổng lồ trên một cái gối để ôm mỗi tối, khi đi ngủ. Không may, Janice đã phát hiện ra cuốn sổ ghi chép bí mật của tôi và truyền khắp lớp, khiến cả lớp cười rú lên vì những bức tranh trưởng tượng, vẽ tôi đứng trước Monticello, mặc áo cưới, đeo mạng che mặt, tay trong tay với Tổng thống Jefferson rất vạm vỡ.
Sau đó, tất thảy đều gọi tôi là Jeff, kể cả các giáo viên dù họ không hiểu vì sao, và lạ thay, họ không bao giờ thấy tôi cau có, ngượng ngùng khi bị gọi như thế trong lớp. Rốt cuộc, tôi hoàn toàn không dám giơ tay phát biểu và luôn cúi gằm mặt ở hàng ghế sau, mong không ai chú ý đến mình.
Nhờ Umberto, hồi trung học tôi bắt đầu quan tâm đến thế giới cổ xưa. Trí tưởng tượng của tôi nhảy từ Leonidas của Sparta đến Spicio của La Mã, có thời gian cả Hoàng đế Augustus, cho đến khi tôi phát hiện ra khía cạnh ám muội của ông ta. Khi bước chân vào đại học, tôi thơ thẩn trở lại cái thời nhân vật của tôi là một người thượng cổ vô danh sống ở vùng thảo nguyên nước Nga, giết những con voi ma mút đầy lông lá và lủi thủi một mình dưới ánh trăng rằm, thổi những giai điệu của người thợ săn bằng cây sáo làm từ xương voi
Người duy nhất – tất nhiên là Janice – vạch ra rằng, tất cả những người trong mộng của tôi đều có chung một thứ. “Quá tệ”, nó đã nói vậy vào một đêm, lúc chúng tôi thử ngủ ở cái lều ngoài vườn và nó cố moi mọi bí mật của tôi, hết điều này đến điều khác, đổi lấy kẹo caramen vốn là của tôi, - “ vì tất cả bọn họ đều đã chết đứ đừ”
- Họ không chết! – Tôi phản đối, rất ân hận vì đã kể cho nó nghe những bí mật của mình. – Những người nổi tiếng sẽ sống mãi.
Nghe vậy, Janice chỉ khịt mũi:
- Có thể, nhưng ai mà muốn hôn một xác ướp kia chứ?
Tuy nhiên, phớt lờ những lời nói ấy, lúc này không chút tưởng tượng mà chỉ là một thói quen, tôi cảm thấy hơi ớn lạnh khi phát hiện ra mình đang lén theo bóng ma của Romeo trong nhà chàng. Với chúng tôi, thủ tục duy nhất để tiếp tục mối quan hệ đẹp đẽ này là chàng vẫn tiếp tục chết.
Eva Maria đang tiếp khách trong phòng hòa nhạc với một đám đàn ông mặc comple đen và đàn bà ăn vận lộng lẫy vây quanh. Căn phòng cao, trang trí màu trắng sữa và màu mật ong, hoàn tất bằng những nét chấm phá màu vàng. Khoảng hai trăm ghế dành cho khán giả, và theo số người đã tụ tập, chắc chắn là sẽ đầy khán phòng. Cuối phòng, các nhạc công đang lên dây đàn, một người phụ nữ to béo mặc đầm đỏ trông như bị ép phải hát. Phần lớn mọi chỗ ở Siena không hiện đại hơn nơi đây để làm nhức mắt thiên hạ, trừ bọn thanh thiếu niên bất trị đi dép lê và mặc quần xếp li.
Vừa thấy tôi bước vào, Eva Maria triệu tôi đến bằng cái vẫy tay vương giả. Lúc đến gần nhóm, tôi nghe thấy bà giới thiệu tôi bằng những lời phóng đại mà tôi không xứng, và trong giây lát tôi đã có những người bạn, một số là nhân vật tiếng tăm của nền văn hóa Siena, trong đó có chủ tịch nhà băng Monte dei Paschi ở lâu đài Salimbeni.
- Monte dei Paschi, - Eva Maria giải thích, - là quỹ bảo trợ lớn nhất cho các ngành nghệ thuật ở Siena, không thứ gì cô nhìn thấy quanh cô là không được Quỹ tài trợ.
Chủ tịch nhìn tôi, thoáng mỉm cười, vợ ông đứng sát bên cạnh, khoác tay ông cũng cười theo. Giống như Eva Maria, bà là một phụ nữ thanh lịch bất chấp tuổi tác, và mặc dù tôi ăn mặc chỉnh tề cho dịp này, cái nhìn của bà cho biết tôi vẫn còn phải học hỏi nhiều lắm. Bà còn thì thầm khá nhiều với chồng, hoặc có vẻ như thế.
- Vợ tôi nghĩ rằng cô không tin điều này, - chủ tịch nói, vẻ trêu chọc, giọng nói và ngữ điệu của ông như đang ngân nga lời một bài hát. – Có lẽ cô cho rằng chúng tôi quá…- ông tìm từ cho thích hợp, - kiêu ngạo chăng?
- Không phải đâu ạ, - tôi nói, má nóng bừng vì sự xét nét không ngừng của họ, - tôi chỉ thấy…ngược đời là tòa nhà của dòng họ Marescotti lại phụ thuộc vào thiện chí của dòng họ Salimbeni mới tồn tại được, vậy thôi.
Chủ tịch hiểu lập luận của tôi và khẽ gật đầu, dường như khẳng định sự phóng đại của Eva Maria là hợp lý.
- Phải, thật là một nghịch lý.
- Nhưng cuộc đời đầy những nghịch lý, - một giọng nói vang lên phía sau tôi.
- Allessandro! Chủ tịch gọi to, bất chợt vui vẻ và tinh quái, - anh phải đến đây và gặp signorina Tolomei. Cô ấy là người rất….nghiêm khắc với tất cả chúng ta. Nhất là với anh.
- Lẽ tất nhiên rồi. – Allessandro cầm tay tôi và hôn với vẻ chiều nịnh bông lơn. – Nếu cô ấy không thế, chúng ta sẽ không bao giờ tin cô ấy là một Tolomei.
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi trước khi buông tay tolomei.
- Chúng ta sẽ thế nào đây, cô Jacobs?
Một khoảnh khắc kỳ quặc. Rõ ràng Allessandro không ngờ lại chạm trán tôi ở buổi hòa nhạc, và phản ứng của anh không ương ứng với cả hai chúng tôi. Nhưng tôi không trách Allessandro đã tra hỏi tôi; và lại, tôi chưa gọi lại cho anh lần nào sau khi anh ghé qua khách sạn tôi ba ngày trước. Suốt thời gian này, danh thiếp của anh vẫn ở trên bàn tôi như một điềm xấu trong cái bánh đoán số phận. Cuối cùng, sáng hôm nay tôi đã xé nó làm đôi và ném vào sọt rác, hình dung rằng nếu Allessandro thực sự muốn bắt giữ tôi thì đã làm rồi.
- Con không thấy, - Eva Maria nói, hiểu lầm sự căng thẳng của chúng tôi, - tối nay Giulietta trông rất đáng yêu sao, Allessandro?
Allessandro gượng cười:
- Đẹp mê hồn.
- Đúng, đúng, - chủ tịch xen vào, - nhưng anh ở đây thì ai canh giữ tiền của chúng tôi, hở?
- Các bóng ma của dòng họ Salimbeni, - Allessandro đáp, vẫn nhìn thẳng vào mắt tôi. – Một sức mạnh rất ghê gớm đấy.
- Hư nào! – Thầm hài lòng vì lời lẽ của cậu con nuôi, Eva Maria giả vờ cau mày và đập nhẹ lên vai anh ta bằng tờ chương trình cuộn tròn. – Chẳng mấy nỗi tất cả chúng ta sẽ là những bóng ma thôi. Tối nay, chúng ta tôn vinh cuộc sống.
Sau buổi hòa nhạc, Eva Maria khăng khăng mời đi ăn tối, chỉ có ba chúng tôi. Khi tôi bắt đầu phản đối, bà nói toạc ra là sinh nhật bà và nói đêm nay thật đặc biệt “vì tôi được giở trang nữa trong vở hài kịch tuyệt diệu và ai oán của cuộc đời”, mong muốn duy nhất của bà là đến nhà hàng với hai người bà yêu quý. Lạ thay Allessandro không hề phản đối. Hiển nhiên là ỏ Siena, người ta không cãi mẹ đỡ đầu trong ngày của bà.
Nhà hàng ưa thích của Eva Maria ở đường Campane, ngay rìa lãnh địa Đại bàng. Bàn ưa thích của bà nằm trên nền cao ngoài trời, nhìn ra một cửa hàng hoa đóng cửa vào ban đêm.
- Thế ra, - bà nói với tôi, sau khi gọi một chai Prosecco và một đĩa antipasto, - cô không thích nhạc kịch!
- Tôi thích chứ! – Tôi phản đối và ngồi xuống,lúng túng, chân tôi bắt chéo vừa khít dưới gầm bàn. - Tôi yêu nhạc kịch. Quản gia của bà bác tôi lúc nào cũng diễn nhạc kịch. Nhất là vở Aida. Có điều…Aida được coi là công chúa của Etiopia, là một vưu vật chỉ bằng một phần ba tuổi năm mươi của bà ấy. Tôi xin lỗi.
- Hãy làm như Sandro. Nhắm mắt lại đi.
Tôi liếc nhìn Allessandro. Trong buổi hòa nhạc, anh ta ngồi sau tôi và tôi cảm thấy anh ta cứ dán mắt vào tôi suốt.
- Sao ạ? Nàng vẫn đang hát mà.
- Nhưng tiếng hát xuất phát từ tâm hồn! – Eva Maria ngả về phía tôi, nói hộ anh ta. – Chỉ cần lắng nghe, cô sẽ thấy Aida đúng như nàng.
- Thật rộng lượng. Tôi nhìn Allessandro. – Lúc nào anh cũng rộng lượng thế sao?
Allessandro không đáp. Anh ta không phải đáp lại.
- Hào hiệp là đức tính cao quý nhất trong mọi đức tính, - Eva Maria nói, bà thử một ngụm Prosecco và cảm thấy nó rất đáng đồng tiền. – Hãy tránh xa những người keo kiệt. Họ bị kẹt trong tâm hồn ti tiện.
- Theo quản gia của bà bác tôi, - tôi nói, - nhan sắc mới là phẩm chất cao quý nhất. Nhưng ông ấy cũng nói sự hào hiệp có giá trị gần như vẻ đẹp.
- Sự thật là cái đẹp, - cuối cùng, Allessandro nói. – Sự chân thật đẹp đẽ. Theo Keat đấy. Cuộc sống rất thanh thản nếu cô sống chân thật
- Anh thì không ư?
- Tôi không phải là một cái bình.
Tôi bật cười, nhưng anh ta chẳng hề nhếch mép.
Mặc dù muốn chúng tôi trở thành bạn bè, Eva Maria cũng không thể để chúng tôi tiếp tục theo kiểu đó.
- Cô hãy kể thêm về bà bác của cô đi! – Bà giục tôi. – Tại sao cô nghĩ bà không bao giờ kể cô là ai?
Tôi nhìn từ người này sang người kia, cảm thấy họ đã thảo luận về trường hợp của tôi, và không nhất trí với nhau.
- Tôi không biết. Tôi nghĩ có khi bà ấy sợ rằng…-Tôi nhìn xuống. – Tôi không biết nữa.
- Ở Siena, - Allessandro nói, bận bịu với cốc đồ uống, - tên cô sẽ làm cho mọi thứ khác hẳn.
- Tên tuổi, tên tuổi, tên tuổi! – Eva Maria thở dài. – Tôi không hiểu vì sao trước kia bà bác cô – bà Rosa phải không? – chưa bao giờ đưa cô đến Siena.
- Có lẽ bà ấy sợ rằng, - tôi nói, lần này rành mạch hơn, - kẻ giết cha mẹ tôi sẽ giết tôi.
Eva Maria ngồi thẳng dậy, kinh hoàng:
- Ý nghĩ thật khủng khiếp!
- Chúc mừng sinh nhật! –tôi nhấp một ngụm Prosecco. – Cảm ơn vì tất cả. – Tôi trừng trừng nhìn Allessandro, buộc anh ta phải nhìn vào mắt tôi. – Anh đừng lo, tôi sẽ không ở lại lâu đâu.
- Không, - anh ta nói, gật đầu dù chỉ một lần. – Tôi tưởng nơi này quá bình yên so với sở thích của cô.
- Tôi thích sự bình yên
Lúc này, tôi nhận thấy một thoáng cảnh giác âm thầm trong mày xanh biếc của mắt anh ta. Một cái nhìn lo âu.
- Hiển nhiên rồi.
Quyết không đáp lại, tôi nghiến chặt răng và chú ý đến món khai vị. Thật không may, Eva Maria không bắt được sắc thái tế nhị hơn trong cảm xúc của tôi, bà chỉ thấy mặt tôi ửng hồng.
- Sandro, - bà nói, hùa theo thứ mà bà ngỡ là tán tỉnh, - sao con không đưa Giulietta đi một vòng thành phố và chỉ cho cô ây một số thứ đẹp đẽ? Cô ấy sẽ thích đi xem.
- Con chắc cô ấy sẽ thích. – Allessandro xiên một quả ô liu nhưng không ăn. – Thật không may, chúng ta không có pho tượng nàng tiên cá nào.
Đến lúc này, tôi biết chắc anh ta đã kiểu tra hồ sơ về tôi và chắc hẳn đã tìm ra mọi thứ cần biết về Julie Jacobs – Julie Jacobs đã biểu tình phản chiến, từ Rome trở về rồi đến Copenhagen phản đối Đan Mạch dính líu đến Iraq, bằng cách phá hoại bức tượng nàng tiên cá.
Buồn thay, hồ sơ không cho anh ta biết rằng mọi chuyện này là nhầm lẫn, rằng Julie Jacobs chỉ đến Đan Mạch để chứng tỏ cho cô em gái biết rằng mình dám đương đầu thôi.
Nuốt thứ pha trộn giận dữ và sợ hãi đến chóng mặt vào cổ họng, tôi dò dẫm với tay đến giỏ bánh mì, hy vọng không lộ quá rõ sự hoảng sợ.
- Không, nhưng chúng tôi có nhiều pho tượng đẹp đẽ khách sạn! Eva Maria nhìn tôi, rồi nhìn Allessandro, cố hiểu việc đang diễn ra. – Và nhiều đài phun nước. Con có thể đưa cô ấy đến Fonterbrand…
- Có lẽ cô Jacobs thích nhìn thấy phố Malconteni, - Allessandro gợi ý, ngắt lời bà Eva Maria, -Đấy là nơi người ta thường dẫn phạm nhân, để các nạn nhân có thể ném đủ thứ vào người bọn chúng trên đường đến giá treo cổ.
Tôi trả miếng cái nhìn trừng trừng đầy hiềm thù của anh ta, cảm thấy không cần che giấu nữa:
- Không ai nhận được sự khoan hồng sao?
- Có. Gọi là bị trục xuất. Những người đó phải rời Siena và không bao giờ được trở lại. Để đền bù, cuộc sống của họ thường khá giả.
- Ồ, tôi hiểu, - tôi đập lại, cáu kỉnh, - giống như dòng họ Salimbeni của anh vậy. – Tôi liếc trộm Eva Maria, bà thay đổi, chết lặng. – Tôi nhầm chăng?
Allessandro không trả lời ngay. Nhìn các cơ trên quai hàm anh, tôi biết anh ta rất muốn phản ứng lại bằng lối tương tự, nhưng hiểu rằng không thể làm thế trước mặt mẹ đỡ đầu.
- Gia tộc Salimbeni, - cuối cùng anh ta nói, giọng căng thẳng, bị chính quyền sung công năm 1419 và buộc phải rời nước Cộng hòa Siena.
- Vĩnh viễn ư
- Rõ ràng là không. Nhưng họ bị trục xuất một thời gian dài. – Cách anh ta nhìn tôi cho biết hiện giờ đang nói về tôi. – Và chắc họ đáng bị thế.
- Nếu….họ trở lại thì sao?
- Lúc đàn ông…-Allessandro ngừng để gây ấn tượng, và tôi bàng hoàng nhận thấy màu xanh trong mắt anh ta không phải là màu tán cây tự nhiên, mà lạnh lẽo, và kết tinh giống mảnh malaxit, hồi lớp bốn tôi đã tưởng là thứ quý hiếm, trước khi thầy giáo giảng giải rằng đấy là một khoáng sản chiết ra đồng, có hại cho môi trường, - ắt họ phải có lý do chính đáng.
- Đủ rồi! – Eva Maria giơ cốc lên. –Không còn trục xuất nữa. Không còn đánh nhau nữa. Bây giờ chúng ta là bạn.
Chúng tôi cố chuyện trò lịch sự khoảng mươi phút nữa. Sau đó, Eva Maria xin lỗi vào nhà vệ sinh, để mặc Allessandro và tôi tự xoay xở. Liếc nhìn, tôi thấy anh ta đưa mắt khắp người tôi, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhất, tôi tin rằng mọi việc này chỉ là trò mèo vờn chuột, xem tôi có đủ hăng hái để làm bạn chơi trong một tuần không. Được, tôi tự nhủ, dù mèo có mưu mô gì đi nữa, rồi sẽ phải ngạc nhiên điếng người.
Tôi với một lát xúc xích.
- Anh có tin vào sự chuộc lỗi không?
- Tôi không quan tâm, - Allessandro nói, đẩy đĩa về phía tôi, - việc cô đã làm ở Rome. Hoặc ở bất cứ nơi nào khác. Nhưng tôi quan tâm đến Siena. Hay cho tôi biết, vì sao cô đến đây?
- Đây có phải là cuộc thẩm vấn không? – Tôi nói, miệng đầy thức ăn. – Tôi có nên gọi luật sư của tôi không?
Allessandro ngả người về phía tôi, hạ giọng:
- Tôi có thể tống cô vào tù như thế này này, - anh ta bật ngón tay đánh tách trước mũi tôi. – Đấy có phải là điều cô muốn không?
- Anh biết không, - tôi nói, xúc thêm thức ăn vào đĩa, và rất mong anh ta không chú ý đến bàn tay tôi đang run, những trò chơi quyền lực không bao giờ tác động tới tôi. Người ta có thể làm tổ tiên anh kinh ngạc, nhưng xin hãy nhớ lại, tổ tiên tôi chưa bao giờ có ấn tượng với thứ đó.
- Thôi được, - Allessandro dựa lưng vào ghế và thay đổi chiến thuật. – Thế này nhé: Tôi sẽ để mặc cô với một điều kiện. Cô hãy tránh xa Eva Maria.
- Sao anh không nói điều đó với bà ấy?
- Bà là một phụ nữ đặc biệt, và tôi không muốn bà đau khổ.
Tôi đặt dĩa xuỗng:
- Còn tôi thì sao? Anh nghĩ gì về tôi?
- Có thực cô muốn biết không? Allessandro lại nhìn tôi khắp lượt như tôi là một đồ tạo tác quá ư giá trị đem bán. – Thôi được. Tôi nghĩ cô xinh đẹp, thông minh….và là một diễn viên cừ khôi. – Thấy tôi bối rối, anh ta cau mày và nói tiếp, cứng rắn hơn, - tôi nghĩ có người trả cô nhiều tiền để cô tới đây và giả làm Giulietta Tolomei…
- Cái gì?
-…và một phần trong công việc của cô là tiếp cận Eva Maria. Nhưng đoán xem…tôi sẽ không để việc đó xảy ra.
Tôi không biết bắt đầu từ đâu. May thay, lời buộc tội của anh ta kỳ quái đến mức khiến tôi quá kinh ngạc nên không cảm thấy bị tổn thương. Cuối cùng, tôi nói:
- Vì sao anh không tin tôi là Giulietta Tolomei? Vì tôi không có đôi mắt xanh trẻ thơ ư?
- Cô muốn biết vì sao không? Tôi sẽ cho cô biết. – Anh ta nhoài tới trước, khuỷu tay chống lên bàn. – Vì Giulietta Tolomei đã chết.
- Vậy anh giải thích như thế nào việc tôi đang ngồi ngay tại đây? – Tôi vặn lại, cũng ngoài tới trước.
Anh ta nhìn tôi khá lâu để tìm kiếm gì đó trên mặt tôi song không thấy. Cuối cùng, Allessandro ngoảnh đi, môi mím chặt, và tôi biết vì lý do nào đó tôi không thuyết phục nổi anh ta, và chắc chẳng bao giờ thuyết phục nổi.
- Anh nên biết rằng, - tôi đẩy ghế và đứng dậy. – Tôi sẽ nhận lời anh và không bầu bạn với Eva Maria nữa. Nhờ anh cảm ơn bà ấy vì buổi hòa nhạc và bữa ăn và nói hộ là bà ấy có thể lấy lại quần áo bất cứ khi nào bà muốn. Tôi không cần tới chúng nữa rồi.
Tôi không đợi Allessandro trả lời, hiên ngang rời khỏi nhà hàng, không hề nhìn lại. Ngay khi rẽ góc phố đầu tiên và ra khỏi tầm nhìn, tôi cảm thấy những giọt nước mắt giận dữ dâng đầy, và không đếm xỉa đến đôi giầy, tôi bắt đầu chạy. Điều cuối cùng tôi muốn là Allessandro đuổi kịp và xin lỗi tôi vì sự thô lỗ của anh ta, lẽ ra anh ta nên cố là người như thế.
Đêm hôm ấy trên đường về, tôi bám vào những cái bóng và đường phố ít người qua lại. Lúc bước xuyên bóng tối, tôi hy vọng hơn là nhận thức được việc mình có đi đúng đường không, vì mải nghĩ đến cuộc tranh luận với Allessandro – và, cụ thể hơn, là những điều hay ho tôi có thể nói, nhưng đã không thốt nên lời – mất một lúc sau, tôi mới nhận ra mình bị bám đuôi.
Lúc đầu là một cảm giác kỳ quái vì bị theo dõi. Nhưng chẳng mấy chốc, tôi bắt đầu nhận ra những tiếng động yếu ớt của ai đó lén theo sau tôi. Mỗi khi tôi cố tiến nhanh về phía trước, tôi cảm nhận được tiếng sột soạt của quần áo và đế giầy mềm, nhưng nếu tôi đi chậm lại, tiếng sột soạt biến mất tôi chẳng nghe thấy gì ngoài sự yên lặng đáng lo ngại, càng ngày càng có vẻ nghiêm trọng hơn. Đột ngột rẽ xuống một đường phố hú họa, tôi có thể nhận ra chuyển động và bóng dáng một người đàn ông qua khóe mắt. Nếu tôi không nhầm, đó chính là gã đã theo tôi vài ngày trước, khi tôi rời nhà băng ở lâu đài và mang theo cái hộp của mẹ tôi. Rõ ràng với tôi, cuộc chạm trán trước đây là nguy hiểm, và lúc này, nhận ra hình thù và dáng đi ấy, cộng thêm tiếng còi báo động chói tai, gạt mọi ý nghĩ kiềm chế ra khỏi đầu, tôi tuột phắt đôi giầy và – lần thứ hai trong đêm ấy – tôi bắt đầu chạy.
Tim ta tới giờ yêu chưa nhỉ? Mắt ta ơi, hãy thề là chưa đi!
Vì ta chưa từng thấy nhan sắc thật sự nào cho đến đêm nay
--- --------oOo---- -------
Siena, 1340 Công Nguyên
Ban đêm khiến điều ác chín muồi.
Chẳng mấy chốc, Romeo và các anh em họ của chàng đã ra khỏi tầm nhìn của pháo đài Marescotti, họ lao vào một góc phố, nghẹn thở vì cười. Tối nay họ trốn khỏi nhà quá dễ dàng, vì lâu đài Marescotti đang rộn ràng khách khứa từ Bologna tới, và cha của Romeo, sĩ quan chỉ huy Marescotti bất đắc dĩ phải thết tiệc, có cả nhạc công tiêu khiển cho mọi người. Vả lại, Bologna đã khoản đãi họ, lẽ nào Siena không thể làm gấp mười?
Thừa biết là một lần nữa, họ lại vi phạm lệnh giới nghiêm của vị chỉ huy, Romeo và các anh em dừng lại, buộc dây mặt nạ hóa trang lòe loẹt mà họ thường đeo trong những cuộc phiêu lưu ban đêm. Lúc họ đứng đó, loay hoay buộc nút, thắt nơ, người bán thịt của gia đình đi qua, bưng một giỏ giăm bông cho bữa tiệc và một người giúp cầm đuốc, nhưng ông ta qua khôn ngoan, vờ như không nhận ra tốp thanh niên. Một ngày nào đó, Romeo sẽ là chủ nhân của lâu đài Marescotti và là người trả tiền cho những thứ ông ta cung cấp.
Khi đã đeo mặt nạ đâu vào đấy, tốp thanh niên đội lại mũ nhung, cố chỉnh làm sao cho khuôn mặt được che đi nhiều nhất. Cười rộng đến mang tai vì cảnh tượng của các bạn, một người trong bọn cầm cây đàn luýt mang theo và bật vài hợp âm vui vẻ: “Giu- hiu, hu, lietta” anh ta hát bằng giọng the thé, trêu đùa. “Ta sẽ là một con chi-i-i- của nàng, con chi - - im bé bỏng, tinh nghịch dâm đãng của nàng” – Anh ta nhảy vài bước lò cò như chim, khiến tất cả - trừ Romeo – nghẹn vì cười.
- Vui lắm đấy! –Romeo cáu kỉnh. – Cứ cười trên nỗi đau của ta, và ta sẽ cho các người biết tay!
- Đi thôi, - một người khác nói, hơi sốt ruột, - nếu chúng ta không nhanh lên, nàng sẽ đi nằm và bản dạ khúc của anh sẽ trở thành bài hát ru.
Nếu đàn ông bằng bước chân, cuộc hành trình tối nay của họ không dài, chỉ độ năm trăm sải. Nhưng nếu đàn ông bằng những thứ khác, thì đây là một cuộc phiêu lưu. Dù đã muộn, đường phố vẫn nhan nhản người – dân địa phương lẫn với người lạ, người mua kẻ bán, người hành hương với kẻ móc túi, - ở góc phố nào cũng có một nhà tiên tri đứng, tay cầm nến sáp, kết tội cõi trần gian nặng nhu cầu xác thịt, trong lúc hằm hè dán măt vào từng ả gái điếm đi qua vì phải kiềm chế, y hệt lũ chó thèm thuồng ngắm một dây dài xúc xích đung đưa. Họ phóng qua đường phố ngoằn nghèo, nhảy qua cái rãnh ở chỗ này, người ăn xin ở chỗ kia, chúi người tránh các quả bóng ném và các ghế kiệu, cuối cùng tốp thanh niên dừng lại biên rìa quảng trường Tolomei. Rướn người xem vì sao cả đám đông dứng im phăng phắc, Romeo thoáng thấy một thân hình ăn vận sặc sỡ đang nhấp nhô tới lui trong màn đêm tối tăm trên các bậc thềm nhà thờ San Cristoforo.
- Nhìn kìa! – Một người trong bọn nói. – Tolomei đã mời San Cristoforo đến ăn tối. Nhưng ông ta ăn vận chẳng bảnh bao gì lắm. Thật xấu hổ!
Cả bọn kinh sợ dõi theo đoàn người dưới ánh đuốc từ nhà thờ qua quảng trường tới lâu đài Tolomei, và Romeo chợt hiểu rằng đây là cơ hội cho chàng đàng hoàng bước thẳng vào tòa nhà bằng cửa trước, hơn là đứng loanh quanh một cách ngu ngốc dưới cửa sổ đoán chừng là của Giulietta. Một hàng dài những người tự cao tự đại theo sau các thầy tế cầm tượng thánh, tất thảy đều đeo mặt ná hóa trang. Thông thường, cứ vài tháng ngài Tolomei lại tổ chức vũ hội hóa trang để các bạn đồng minh bị trục xuất và những người nhà không coi trọng luật pháp lẻn vào nhà ngài. Nếu không làm thế, chắc chắn sàn nhảy sẽ không thể kín chỗ.
- Chúng tôi sẽ bị treo giò bằng các móng vuốt của số phận. – Romeo nói, lúc tập hợp đám anh em. – Hoặc là thế, hoặc số phận đang giúp chúng ta bằng cách dồn tất cả chúng ta vào chỉ trong khoảnh khắc và cười đắc thắng. Đi nào!
- Đợi đã! - Một người trong bọn nói. – Tôi sợ…
- Anh sợ quá sớm đấy! – Romeo cắt lời. – Nào, các quý ông cường tráng!
Sự lộn xộn trên các bậc thềm nhà thờ San Cristoforo chính là thứ Romeo cần, để lấy trộm một cây đuốc trên chòi canh và tìm bạn nhảy mà không bị ai nghi ngờ: một góa phụ trông có vẻ lớn tuổi hơn và không có bạn đi cùng lọt vào tầm ngắm.
- Xin mời, - chàng nói và giơ cánh tay. – Ngài Tolomei rất mong bảo đảm nguồn an ủi cho bà.
Người đàn bà hình như không hề phật ý với cánh tay cuồn cuộn cơ bắp đầy hứa hẹn của chàng và những nụ cười táo tợn của các bạn chàng.
- Đây là lần đầu tiên, - bà ta nói với vẻ trang trọng. – Nhưng tôi có thể nói, chắc ông ấy đang có nhiều sửa đổi.
Dường như là điều không thể với những người chưa nhìn thấy tận mắt, nhưng bước vào lâu đài của họ, Romeo phải kết luận rằng nhà Tolomei đã thực sự vượt xa sự lộng lẫy của nhà Marescotti. Mỗi bức tường là một câu chuyện về những chiến công lẫy lừng của Tolomei trong quá khứ và sự trung thành của Tolomei hiện tại, mà các mảng trần là những mạch chuyện tự phong là ngoan đạo. Nếu chỉ có một mình Romeo sẽ ngửa hẳn đầu lên và trố mắt ngắm nhìn vô vàn những sinh linh tuyệt đẹp khắp bầu trời riêng này. Nhưng không, đây còn có nhiều lính gác mặc chế phục, vũ trang đầy đủ đứng nghiêm dọc theo mỗi bức tường, và nỗi sợ bị phát hiện đủ để kìm hãm sự táo tợn của chàng, buộc chàng phải dành những lời ca ngợi cần thiết với góa phụ lúc họ xếp hàng để bắt đầu khiêu vũ.
Nếu như lúc trước, góa phụ có băn khoăn về thân phận thật của Romeo, thì bộ trang phục hảo hạng của chàng đã làm dịu phần nào thái độ hoài nghi của đám bạn bà, và đến lúc này, khi lấy tư thế để chuẩn bị khiêu vũ, phong thái của Romeo đã đoan chắc với bà dòng dõi quý tộc của chàng.
- Tối nay tôi thật may mắn, - bà ta lẩm bẩm, thận trọng để không ai nghe lỏm được, ngoài chàng. - - Nhưng hãy cho tôi biết, chàng tới đây với ý đồ đặc biệt gì trong đầu hay chỉ tới đây để …khiêu vũ?
- Xin thú thật, - Romeo nói trôi chảy, không hứa hẹn quá nhiều cũng không quá ít, - tôi mê khiêu vũ đến tội lỗi. Tôi xin thề có thể khiêu vũ nhiều giờ liền không nghỉ.
Người đàn bà cười dè dặt, thấy thỏa mãn ngay lập tức. Lúc bắt đầu khiêu vũ, bà ta có những cử chỉ tùy tiện quá mức chàng muốn, thỉnh thoảng bà lại lướt các ngón tay trên lớp áo nhung bên ngoài, tìm kiếm cái rắn chắc bên trong, nhưng Romeo đang mải nghĩ đến chuyện khác nên không né tránh bà. Tối nay, mối quan tâm duy nhất của chàng là tìm ra cô gái chàng đã cứu mạng, người có nét mặt đáng yêu được danh họa Ambrogio thể hiện trọn vẹn trên bức chân dung tuyệt diệu. Vị danh họa không cho chàng biết họ của nàng, nhưng không lâu sau, Romeo đã tự tìm ra. Cô gái tới chưa đầy một tuần lễ, tin đồn đã lan khắp thành phố rằng ngài Tolomei đưa một mĩ nhân lạ mặt có cặp mắt xanh thẳm như đại dương tên là Giulietta, đi lễ sáng Chủ nhật.
Nhìn quanh phòng lần nữa, - đầy những phụ nữ kiều diễm đang xoay tít trong những bộ váy áo rực rỡ, nam giới ở tư thế sẵn sàng đỡ lấy họ, - Romeo bối rối không hiểu vì sao không nhìn thấy cô gái đâu. Chắc chắn một bông hoa như thế sẽ truyền từ tay này sang tay khác, chẳng lúc nào rảnh rỗi mà ngồi; thử thách duy nhất là giải phóng nàng khỏi các chàng trai khác đang cầu khẩn sự chú ý của nàng. Trước đây Romeo đã gặp sự thách thức đó nhiều lần, và đó là một trò chơi mà chàng rất hứng thú. Kiên nhẫn luôn là nước cờ đầu tiên, giống như ông hoàng Hi Lạp trước bức tường thành Troy, kiên nhẫn và chịu đựng trong lúc các đối thủ khác lần lượt trở thành những kẻ lố bịch. Lúc đó sẽ là cuộc tiếp xúc đầu tiên, một nụ cười đượm vẻ trêu ghẹo, mưu mô cùng nàng chống lại cả bọn. Tiếp theo là một cái nhìn xuyên qua phòng, một cái nhìn đăm đăm, buồn rầu, nghiêm trang và ơn Chúa, cuối cùng, họ sẽ nắm tay trong một chuỗi các vũ điệu, trái tim nàng đập điên cuồng trong lồng ngực đến mức chàng có thể phát hiện ra những nhịp đập dồn trên cần cổ của nàng. Và ở đó, chính chỗ đó, sẽ là nơi chàng đặt nụ hôn đầu tiên….
Nhưng ngay cả sự kiên nhẫn theo phong cách Homere cũng không giúp ích được gì khi xung quanh hết vũ điệu này đến vũ điệu khác xoay mọi người tứ t
Tác giả :
Anne Fortier