Juliet
Chương 4
Nếu gặp bọn chúng, ta không tránh khỏi gây lộn đâu
Những ngày nóng nực này dễ làm ta bực bội điên rồ
--- --------oOo---- -------
Tôi trở lại lâu đài đầy những bóng ma đang thì thào. Như thường lệ, giấc mơ ấy đưa tôi đi hết phòng này sang phòng khác, nhìn ngó mọi nơi vì những người tôi biết đều đã ở đó, mắc kẹt y hệt tôi. Điều mới mẻ lần này, các cánh cửa mạ vàng đã tự mở ra dù tôi chưa kịp chạm đến chúng. Dường như trong không gian đầy những bàn tay vô hình chỉ đường và kéo tôi đi cùng.Thế là tôi cứ đi, đi mãi, qua các hành lang thênh thang và những phòng khiêu vũ trống vắng, cho đến nay vẫn là những phần chưa được phát hiện của lâu đài, và cuối cùng, tôi đến một cánh cửa rộng, vững chãi. Có lẽ đây là lối ra chăng?
Tôi ngắm khung sắt nặng nề trên cánh cửa và giơ tay định thử mở chốt. Nhưng tôi chưa kịp chạm tới, cánh cửa không khóa đã bật mở, lộ ra một khoảng không tối tăm, rộng rãi.
Dừng lại trên ngưỡng cửa, tôi liếc vào bên trong và cố nhìn xem có thấy thứ gì giúp tôi nhận ra tôi đã ra ngoài hay chỉ đang ở một phòng khác. Tôi đứng đó, chẳng thấy gì và khi chớp chớp mắt, một luồng gió lạnh lẽ từ bóng tối phía trước ào tới, cuộn quanh và giật lấy chân tay khiến tôi loạng choạng. Tôi vồ lấy khung cửa bám cho chắc, luồng gió mạnh đến mức giật tung tóc và quần áo tôi, hú lên giận dữ như thể muốn cuốn phăng tôi qua rìa cửa. Sức mạnh của nó kinh khủng đến mức khung cửa bắt đầu bung ra và sàn nhà vỡ vụn dưới chân tôi. Vật lộn để được an toàn, tôi buông khung cửa và cố chạy trở về bên trong lâu đài, nhưng một dòng ma quỷ vô hình, vô tận – rú tít, nhạo báng các đoạn trích dẫn Shakespeare mà tôi biết rất rõ – nhung nhúc mọi phía quanh tôi, hóa hức thoát khỏi lâu đài và kéo tuột tôi vào cơn tỉnh thức của chúng.
Tôi ngã soài trên sàn và trượt trở lại, cố vồ lấy thứ gì đó chắc chắn để bám giữ. Lúc tôi trượt qua rìa, một người nào đó mặc bộ quần áo mô tô màu đen lao thẳng tới, chộp lấy cánh tay tôi và kéo lên.
- Romeo! – Tôi kêu lên, túm lấy anh ta, nhưng khi ngước nhìn, tôi chảng thấy gì sau tấm kính che mặt của mũ bảo hiểm, mà chỉ thấy trống rỗng.
Sau đó, tôi ngã xuống, xuống, xuống mãi…cho đến khi rơi xuống nước. Một lần nữa, tôi lại có mặt trên bến du thuyền ở Alexandria, Virginia, năm tôi lên mười, suýt chết đuối trong đám rong biển và rác rưởi trong lúc Janice và các bạn nó đứng trên cầu tàu, ăn kem và cười cợt, reo hò.
Lúc tôi vừa ngoi được lên khỏi mặt nước, cố hết sức nắm lấy dây neo, tôi thở hổn hển và …thức giấc, thấy mình đang nằm trên đi-văng của danh họa Lippi, một tấm chăn ngứa ngáy thắt nút quanh chân tôi và con Dante đang liếm bàn tay tôi.
- Xin chào, - nhà danh họa nói và đặt cốc cà phê trước mặt tôi. – Dante không thích Shakespeare đâu. Nó là một con chó rất thông minh.
Cuối buổi sáng hôm ấy, khi tôi trở lại khách sạn, mặt trời rực rỡ dẫn đường cho tôi, những sự việc đêm trước hình như hư ảo đến kỳ cục, như thể tất cả chỉ là buổi diễn của một nhà hát khổng lồ, dàn cảnh làm vui cho ai đó. Bữa tối với mẹ con nhà Salimbeni, cuộc chạy trốn qua những đường phố tăm tối, nơi trú ẩn kỳ dị của tôi trong xưởng vẽ của danh họa Lippo…tất cả là chất liệu tạo nên cơn ác mộng, chứng cứ duy nhất cho thấy mọi sự đã thực sự xảy ra là bùn đất và những vết cào xước ở lòng bàn chân tôi.
Điểm mấu chốt là nó đã xảy ra, và tôi phải ngừng ru ngủ mình bằng cảm giác an toàn giả dối càng sớm càng tốt. Đây là lần thứ hai tôi bị theo dõi, lần này không phải là một gã hú họa nào đó mặc thường phục mà là một gã phi xe máy cừ khôi, dù chưa hiểu mục đích của gã là gì. Một vấn đề đang trở nên nghiêm trọng hơn hết thảy là Allessandro. Người biết rõ biên bản hình sự của tôi và không do dự dùng nó để chống lại tôi, nếu tôi đến bất cứ nơi nào gần bà mẹ đỡ đầu quý hóa của anh ta.
Có mọi lý do thích hợp để thoát khỏi địa ngục này, nhưng Julie Jacobs không phải là người dễ bỏ cuộc và tôi có thể cảm thấy Giulietta Tolomei cũng vậy. Sau cùng, một kho báu khá đáng giá đang bị đe dọa, nếu câu chuyện của danh họa Lippi là thật thì tôi sẽ có khả năng tìm ra ngôi mộ của Juliet rồi đặt tay lên pho tượng có cặp mắt bằng ngọc bích đó.
Có khi pho tượng ấy chỉ là một huyền thoại. Có lẽ trong thực tế, đây là cuộc khám phá mà một số kẻ dở người tin rằng tôi có quan hệ với nhân vật nữ của Shakespeare, tưởng là có một phần thưởng lớn đang đợi tôi ở đoạn cuối của mọi thử thách gay go này. Bà Rose thường than phiền rằng, dù tôi có thể thuộc lòng vở kịch của Shakespeare cả xuôi lẫn ngược, tôi vẫn không thực sự quan tâm đến văn chương hoặc tình yêu, và bà quả quyết rằng, đến một ngày kia tôi sẽ nhìn thấy sự thật to lớn, sáng lóa rọi chiếu mọi sai lầm của tôi.
Một trong những hồi ức đầu tiên của tôi về bà Rose là vào lúc đêm hôm khuya khoắt, bà hay ngồi bên cái bàn to bằng gỗ gụ, bên cạnh một ngọn đèn lẻ loi cháy sáng để xem cái gì đó rất cẩn thận bằng kính lúp. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác chân con gấu bông nắm chặt trong bàn tay của tôi, và nỗi sợ bị bắt trở lại giường. Lúc đầu bà không nhìn thấy tôi, nhưng lúc phát hiện ra tôi, bà giật mình như thể tôi là một con ma nhỏ đang ám bà. Điều tiếp theo tôi nhớ là được ngồi trong lòng bà nhìn vào một tờ giấy trải rất rộng.
- Nhìn đây này, - bà nói, và giữ cái kính lúp cho tôi. – Đây là cây phả hệ của gia tộc chúng ta, còn đây là mẹ cháu.
Tôi còn nhớ sự háo hức, kích động rồi sau đó là nỗi thất vọng chua chát. Không phải là một tấm ảnh của mẹ tôi, mà chỉ là một dòng chữ, còn tôi hồi đó vẫn chưa biết đọc.
- Nó nói gì đấy ạ? – Chắc là tôi hỏi thế, vì tôi nhớ rất rõ câu trả lời của bà Rose.
- Nó nói rằng, - bà nói với một vẻ rất kịch, hiếm thấy, - “Bác Rose yêu quý, xin vui lòng nhận trông nom con gái bé bỏng của cháu. Nó rất đặc biệt. Cháu nhớ nó vô cùng”. – Tôi kinh hãi vì lúc đó, tôi nhận ra bà đang khóc. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người lớn khóc. Cho đến hồi đó, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng người lớn lại có thể khóc.
Khi Janice và tôi lớn hơn, bà Rose kể cho chúng tôi nghe một mẩu chuyện kỳ quặc về mẹ tôi, nhưng không bao giờ là hình ảnh trọn vẹn. Một hôm, sau khi vừa vào đại học và đã có chút chính kiến, vào một ngày đặc biệt đẹp trời, chúng tôi đưa bà ra khỏi nhà, mời bà ngồi vào ghế trong vườn, với cà phê và bánh xốp trong tầm với, rồi mới cố tình xin bà kể cho nghe toàn bộ câu chuyện. Đây là một khoảnh khắc hợp lực hiếm hoi giữa hai chị em tôi. Chúng tôi cùng tới tấp hỏi bà: Ngoài sự thật cha mẹ tôi chết trong một tai nạn xe hơi, cha mẹ tôi trông như thế nào? Tại sao chị em tôi không bao giờ được lien lạc với những người họ hàng ở Italy, trong khi hộ chiếu của chúng tôi ghi rõ chúng tôi sinh ra ở đấy?
Bà Rose ngồi im lìm, lắng nghe những câu hỏi dồn dập của chúng tôi và không động đến miếng bánh nào; khi bà nghe hết, bà gật đầu:
- Các cháu có quyền hỏi những câu như thế, và sẽ có ngày, các cháu có được câu trả lời thảo đáng. Nhưng lúc này, các cháu phải kiên nhẫn. Ta kể về gia đình các cháu rất ít vì muốn tốt cho các cháu thôi.
Tôi không thể hiểu nổi vì sao biết mọi điều về gia đình mình lại là xấu. Chí ít thì chỉ một chút cũng được. Nhưng tôi tôn trọng sự bực dọc của bà Rose về dòng dõi nên cố kìm nén những xung đột khó hiểu cho đến sau này. Một ngày nào đó, tôi sẽ mời bà ngồi và yêu cầu bà giải thích. Một ngày nào đó, bà sẽ kể cho tôi nghe hết mọi chuyện. Ngay cả khi bà sắp tám mươi tuổi, tôi vẫn mong rồi sẽ có ngày bà trả lời mọi câu hỏi của chúng tôi. Nhưng giờ đây, tất nhiên là bà không thể nữa rồi.
Lúc tôi bước vào khách sạn, giám đốc Rossini đang nghe điện thoại ở phòng đằng sau; tôi dừng lại chốc lát, đợi ông ra. Trong lúc đi bộ từ xưởng vẽ của danh họa Lippi về, tôi nghĩ tới nghĩ lui những diễn giải của người họa sĩ về vị khách đêm khuya tên là Romeo, và kết luận rằng đây là lúc tốt nhất để tôi bắt đầu nghiên cứu về gia tộc Marescotti và hậu duệ hiện nay của họ, nếu có thể.
Tôi hình dung, bước hợp lý đầu tiên là hỏi giám đốc Rossini về cuốn danh bạ điện thoại ở địa phương, và tôi định sẽ làm ngay. Nhưng sau khi đợi khoảng mươi phút, cuối cùng tôi bỏ ý định đó và đến quầy lấychìa khóa phòng treo trên tường.
Giận mình vì đã không hỏi danh họa Lippi cặn kẽ về gia tộc Marescotti lúc có cơ hội, tôi chậm rãi lên cầu thang, những vết rách ở lòng bàn chân làm tôi nhức nhối trong từng bước đi. Tôi không có thói quen đi giày cao gót, nhất là trên những dặm đường tôi đã đi qua trong hai ngày vừa rồi. Tuy nhiên, ngay khi mở cửa phòng, tôi quên bẵng mọi nỗi đau đớn. Căn phòng bị đảo lộn từ dưới lên trên, có khi cả từ trong ra ngoài.
Chắc chắn đã có một kẻ đột nhập – nếu không phải là cả một nhóm – đã kéo bật cửa tủ áo và lôi các thứ nhồi trong gối ra để tìm thứ chúng muốn, quần áo, đồ linh tinh và các thứ trong buồng tắm rải rác khắp nơi, một số đồ lót mới của tôi còn treo lòng thong trên ngọn chúc đài.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái va-li bị nổ bom, nhưng tôi chắc rằng quang cảnh này trông giống như thế..
- Cô Tolomei! – Cuối cùng, giám đốc Rossini thở hổn hển, vát vả để đuổi kịp tôi, - Nữ bá tước Salimbeni gọi đến hỏi xem cô có khá hơn không, nhưng…lạy Đức Mẹ! – vừa nhìn thấy cảnh tàn phá trong phòng tôi, ông quên bẵng mất mọi điều định nói, và cả hai chúng tôi đứng đó trong giây lát, lặng lẽ, kinh hoàng, nhìn đăm đăm vào mọi thứ.
- Vậy đấy, - tôi nói, nhận ra mình có một khán giả, - ít nhất thì bây giờ tôi không phải mở va li ra nữa.
- Kinh khủng quá! –giám đốc Rossini kêu lên. – Nhìn này! Bây giờ người ta sẽ nói rằng khách sạn không an toàn! Ấy, cẩn thận, kẻo giẫm phải thủy tinh!
Sàn nhà đầy những mảnh kính của cửa ban công bị đập vỡ. Rõ ràng kẻ đột nhập đến vì cái hộp của mẹ tôi, và cố nhiên là cái hộp đã biến mất, nhưng câu hỏi là tại sao hắn tiếp tục sục sạo căn phòng của tôi như thế. Hắn còn lục tìm thứ gì đó ngoài cái hộp chăng?
- Đồ ngốc! – Giám đốc Rossini thở dài. – Giờ tôi phải gọi điện cho cảnh sát, họ sẽ tới và chụp ảnh, rồi báo chí sẽ viết rằng khách sạn Chiusarelli không an toàn!
- Đợi đã! – Tôi nói. – Ông đừng gọi cảnh sát. Không cần đâu. Chúng ta biết bọn chúng đến vì cái gì rồi.
Tôi đến bên cái bàn đã để chiếc hộp. – Chúng sẽ không trở lại nữa đâu. Bọn khốn khiếp.
- Ồ! – Giám đốc Rossini chợt tươi nét mặt. – Tôi quên kể với cô rồi! Hôm qua, chính tôi đích thân đưa các va-li của cô lên…
- Vâng, tôi có nhìn thấy.
- …và tôi nhận thấy cô có một thứ đồ cổ rất đắt tiền trên chiếc bàn đó. Thế là tôi đã tự ý mang nó ra khỏi phòng này và cất trong két an toàn của khách sạn. Tôi mong cô không phiền chứ? Bình thường, tôi không can thiệp vào…
Tôi nhẹ cả người đến mức không nghĩ đến việc nổi giận và sự can thiệp của ông hoặc kinh ngạc vì tầm lo xa của ông. Thay vào đó, tôi nắm lấy vai ông: :
- Cái hộp vẫn ở đây ư?
Không còn nghi ngờ gì nữa, khi theo giám đốc Rossini xuống văn phòng của ông, tôi thấy cái hộp của mẹ tôi nằm rất gọn và khít trong két an toàn của khách sạn, giữa các sổ sách kế toán và các cây chúc đài bằng bạc.
- Ông phúc đức quá, - tôi nói, thật lòng, - cái hộp này rất quan trọng.
- Tôi biết, - ông nghiêm trang gật đầu. – Bà tôi có một cái giống y như cái này. Người ta không còn sản xuất chúng nữa. Đây là món đồ cổ truyền thống của Siena. Chúng tôi gọi là hộp bí mật, vì chúng có nhiều ngăn để giấu đồ. Cô có thể giấu cha mẹ nhiều thứ. Hoặc các con. Hoặc bất cứ người nào khác.
- Ông định nói là…nó có một ngăn bí mật ư?
- Phải! – giám đốc Rossini cầm chiếc hộp và bắt đầu săm soi. – Tôi sẽ chỉ cho cô. Cô phải là một người Siena mới biết cách tìm ra, vì nó giấu rất khéo. Không bao giờ ở cùng một chỗ. Hộp của bà tôi có ngăn ở bên cạnh, ngay đây này…nhưng cái hộp này thì khác. Nó đòi hỏi phải khéo léo. Để tôi xem nào….không phải ở đây…không ở đây...-Ông ta kiểm tra kỹ lưỡng cái hộp ở mọi góc độ, thích thú với việc mò mẫm, - Bà tôi có một món tóc, không gì hơn. Tôi tìm thấy nó vào một ngày khi bà đang ngủ. Tôi không bao giờ hỏi…a ha! – Không biết bằng cách nào, giám đốc Rossini tìm ra và bấm nút mở của ngăn bí mật. Ông mỉm cười đắc thắng vì một phần tư đáy hộp rơi xuống mặt bàn, tiếp theo là một cái thẻ nhỏ, vuông vắn.
Lật chiếc hộp, cả hai chúng tôi cùng kiểm tra kỹ lưỡng ngăn bí mật, nhưng nó chẳng chứa gì ngoài tấm thẻ.
- Ông có hiểu những thứ này không? – Tôi chỉ cho giám đốc Rossini những chữ cái và con số trên tấm thẻ, được đánh bằng một máy chữ cổ lỗ. – Trông giống như mật mã vậy.
- Cái này là thứ cũ, - ông nói và cầm tấm thẻ từ tay tôi, - cô gọi nó là gì nhỉ? Một phiếu thư mục. Chúng tôi dùng những phiếu này trước khi có máy tính. Nó có từ trước thời của cô. Chà! Thế giới đã đổi thay biết chừng nào! Tôi nhớ khi…
- Ông có biết nó từ đâu ra không?
- Cái này ư? Có lẽ là từ một thư viện chăng? Tôi không biết. tôi không phải là chuyên gia. Nhưng…..- ông liếc nhìn tôi, ước lượng liệu tôi có xứng đáng với sự cởi mở này không, - tôi biết một người hiểu nó.
Mất một khoảng thời gian, tôi mới tìm ra hiệu sách cũ mà giám đốc Rossini tả, và khi đến nơi, lẽ tất nhiên là nó đã đóng cửa nghỉ trưa. Tôi cố nhìn qua các ô cửa kính xem có ai bên trong không, nhưng chẳng thấy gì ngoài sách, sách và sách.
Rẽ ở góc chếch sang quảng trường Duomo, tôi ngồi xuống bậc trước giáo đường Siena cho qua thời gian. Mặc dù du khách chen chúc vào, ra qua các cửa nhà thờ, toàn bộ khung cảnh này vẫn có một vẻ rất thanh bình, vững chãi và bất diệt, khiến tôi cảm thấy nếu không bận bịu, tôi có thể ngồi đó mãi, giống như tòa nhà này, để ngắm nhìn với niềm hòa cổ và lòng trắc ẩn về sự hiện hữu bất diệt của loài người.
Điểm nổi bật nhất của giáo đường là tháp chuông. Nó không cao như tháp Mangia, bông huệ tây cao vút ở Campo của giám đốc Rossini, nhưng khác thường hơn vì những sọc như ngựa vằn. Nhờ những lớp đá mỏng đen trắng xen nhau lên tận đỉnh, nhìn nó giống chiếc cầu thang bằng gốm nung lên tận Thiên đường, và tôi không khỏi ngẩn ngơ vì ý nghĩa tượng trưng của tòa tháp. Có khi chẳng có gì. Có khi mục đích của nó chỉ là để gây ấn tượng. Hoặc có khi chỉ là biểu trưng của một trong các gia huy ở Siena, Balzana – vệt trắng, vệt đen, giống như một cái ly không chân rót đầy một nửa thứ vang màu đỏ sẫm nhất – làm tôi càng thấy khó hiểu hơn.
Giám đốc Rossini đã kể cho tôi nghe chuyện hai anh em sinh đôi người La Mã cưỡi con ngựa vằn đen – trắng chạy trốn ông bác tàn ác, nhưng tôi không tin truyện kể này nhấn mạnh màu sắc của Balzana. Nó phải là một thứ tương phản. Một nghệ thuật đầy gai góc, kết hợp các thái cực và những thỏa hiệp bắt buộc, hoặc có khi thể hiện nhận thức cuộc đời là sự cân bằng tinh tế của các sức mạnh vĩ đại, và nếu trên đời này không còn cái ác phải diệt trừ thì sẽ tốt đẹp biết bao.
Nhưng tôi không phải là một triết gia, và mặt trời cho tôi biết đã đến giờ mà chỉ những con chó dại và người điên mới phơi mình dưới nắng. Vòng trở lại góc phố, thấy hiệu sách vẫn đóng cửa, tôi thở dài và xem đồng hồ, tự hỏi nên trú ở chỗ nào cho đến khi người bạn thời thơ ấu của mẹ giám đốc Rossini ăn trưa trở về.
Bên trong giáo đường Siena đầy ắp vẻ giàu có và bóng tối. Mọi phía quanh tôi là những cây cột đen và trắng, đồ sộ chống đỡ một bầu trời mênh mông rải rác những vì sao, sàn nhà là một bức khảm khổng lồ, ghép hình các biểu tượng và huyền thoại mà tôi biết chút ít nhưng không hiểu, giống người chỉ nghe thấy âm thanh của một thứ ngôn ngữ xa lạ.
Nơi này khác hẳn những ngôi nhà thờ hiện đại trong thời thơ ấu của tôi, dù niềm tin tôn giáo khác nhau, song tôi vẫn cảm thấy trái tim mình đáp lại bằng một nhận biết bí ẩn, dường như trước kia tôi đã ở đó, mong ngóng Chúa Trời từ rất, rất lâu rồi. Tôi chợt nhớ ra mình mới đến đây lần đầu tiên, nhưng nơi này rất giống với tòa lâu đài đầy những bóng ma trong giấc mơ của tôi. Vừa ngẩn ngơ ngắm mái vòm dát những vì sao, yên lặng giữa một rừng những cây cột mày trắng bạc, tôi vừa nghĩ có người đã đưa tôi vào chính tòa giáo đường này khi tôi còn bé tí, và vì thế tôi đã cất giữ trong trí nhớ mà không biết nó là gì.
Một lần duy nhất tôi ở trong một nhà thờ có diện tích tương tự như thế này, là khi Umberto đưa tôi đến nhà thờ National Shrine ở Washington, trốn học sau cuộc hẹn với nha sĩ. Hồi đó tôi không quá sáu, bảy tuổi, nhưng tôi nhớ rất rõ ông quỳ cạnh tôi ở giữa sàn nhà mênh mông và hỏi:
- Cô có nghe thấy gì không?
- Nghe tháy gì ạ? – Tôi hỏi, tay nắm chặt cái túi nhựa nhỏ đựng bàn chải răng mới màu hồng
Ông ngửa đầu khôi hài:
- Các thiên thần. Nếu cô trật tự hơn, cô sẽ nghe thấy họ cười khúc khích.
- Họ cười gì ạ - Tôi tò mò. – Cười chúng ta ư?
- Họ tiếp nhận những lời răn dạy đang bay ở đây. Không có gió, chỉ có hơi thở của Chúa thôi.
- Hơi thở của Chúa làm họ bay được à?
- Có một mẹo để bay. Các thiên thần kể với tôi thế. – Ông mỉm cười vì tôi mở to mắt, kinh sợ. – Cô phải quên mọi thứ cô biết khi là một con người. Khi là người, cô phát hiện ra có một sức mạnh vĩ đại trên trái đất đáng căm ghét này. Và nó có thể làm cô gần như bay được. Nhưng không bao giờ được đâu.
Tôi nhăn mặt, không hiểu ý ông.
- Thế, mẹo đó là gì ạ
- Yêu thương bầu trời.
Lúc tôi đứng đó, đang đắm chìm trong hồi ức về lời thổ lộ tràn đầy cảm xúc, hiếm hoi của Umberto, một nhóm du khách người Anh tiến đến phía sau tôi, hướng dẫn viên sôi nổi nói đến những thất bại trong việc cố gắng tìm hiểu và khai quật hầm mộ cổ - được cho rằng tồn tại từ thời Trung cổ nhưng nay đã mất vĩnh viễn.
Tôi lắng nghe một lát, thích thú cái kiểu kể chuyện giật gân của người hướng dẫn rồi để giáo đường lại cho các du khách, tôi rảo bước xuống đường Capitano và rốt cuộc, rất ngạc nhiên khi lại trở lại quảng trường Postierla, đối diện với quán cà phê hơi của Malena.
Quảng trường nhỏ này những lần trước tôi có mặt đều tấp nập, nhưng hôm nay yên tĩnh dễ chịu, có lẽ vì đang giờ ngủ trưa và trời nóng như nung. Một cái bệ có con sói cái đang cho hai sói con bú đối diện với đài phun nước nhỏ, có con chim bằng kim loại trông hung dữ lượn bên trên. Hai đứa trẻ, một trai một gái đang té nước vào nhau và chạy tới chạy lui, cười ré lên trong lúc một dãy người già ngồi trong bóng râm cách đấy không xa, đội mũ, áo khoác đã cởi, nhìn sự vui sống của lũ trẻ bằng con mắt hiền hòa.
- Chào nhé! – Malena nói khi nhìn thấy tôi bước vào quán. – Luigi làm việc được đấy chứ?
- Anh ấy là một thiên tài. – Tôi tiến tới chỗ cô, nhoài người trên quầy mát lạnh, cảm thấy tự nhiên lạ thường. – Tôi sẽ chẳng bao giờ rời Siena miễn là anh ấy còn ở đây.
Cô cười vang, tiếng cười ấm áp, ranh mãnh, khiến một lần nữa tôi lại băn khoăn về những bí ẩn trong cuộc sống của những người phụ nữ nơi này. Dù nó là gì đi nữa, tôi cũng bỏ lỡ mất rồi. Nó hơn sự tự tin rất nhiều, hình như nó là khả năng yêu thương nồng nhiệt và không khoan nhượng về cả thể xác lẫn tinh thần, kéo theo giả thuyết rất tự nhiên rằng mỗi con người trên hành tinh đang hấp hối này đều phải bắt tay vào hành động.
- Đây, - Malena đặt tách cà phê hơi xuống trước mặt tôi và nháy mắt, thêm một chiếc bánh quy có vị hồi, - ăn thêm vào. Nó sẽ đem lại cho cô…cô biết không, chí khí.
- Một loại vật trông hung dữ, nhỉ? Tôi nói, ám chỉ đài phun nước ngoài kia. – Nó là loài chim gì thế?
- Chim đại bàng của chúng tôi, tiếng Ý là Aquila. Đài phun nước là …ờ, là gì nhỉ? – Cô cắn môi, tìm từ. – Fonte battesimale….bình nước thánh cho lễ rửa tội, phải không nhỉ? Đúng rồi! Đây là nơi chúng tôi mang trẻ sơ sinh tới, để chúng trở thành aquiline, những con đại bàng nhỏ.
- Đây là lãnh địa Đại bàng sao? – Tôi liếc nhìn những người khách khác, bỗng thấy mình ngô nghê. – Có thực biểu tượng đại bàng xuất phát từ gia tộc Marescotti không?
- Phải, - Malena nói và gật đầu. – Nhưng đương nhiên chúng tôi không sáng tác ra nó. Đại bàng vốn có nguồn gốc từ người La Mã, sau đó Carlomagno kế tục, và từ khi gia tộc Marescotti có quân đội riêng, chúng tôi có quyền sử dụng biểu tượng uy quyền này. Nhưng không ai biết gì hơn.
Tôi chăm chú nhìn cô, gần như tin chắc rằng cô nhắc tới gia tộc Marescotti như thể cô là người nhà họ.
Nhưng tôi vừa mở miệng định hỏi, bộ mặt tươi hơn hớn của cậu hầu bàn len vào giữa chúng tôi.
- Chỉ những người đủ may mắn mới được làm việc ở đây. Chúng tôi biết mọi thứ về con chim cao quý của cô ấy.
- Phớt cậu ta đi, - Malena nói, giả vờ giơ cái khay đánh vào đầu anh ta. – Cậu ấy thuộc lãnh địa Torre – Tháp, cô hiểu không? – Malena nhăn mặt. – Lúc nào cũng pha trò.
Đúng lúc đó, trong niềm vui chung, có một thứ thoáng qua mắt tôi. Một người cưỡi xe máy màu đen, kính che kín mặt, dừng lại giấy lát nhìn qua cửa kính rồi rồ ga phóng mất.
- Ducati Monster S4, - cậu hầu bàn đọc thuộc lòng như nhớ lại quảng cáo trên báo, - một hung thần đường phố thực sự. Động cơ làm mát bằng dung dịch. Nó làm đàn ông mơ đến chém giết, tỉnh dậy toát mồ hôi và cố vồ lấy nó. Nhưng nó không có tay vịn. Vì thế, - cậu ta vỗ vào bụng, gợi ý, - đừng mời một cô gái lên xe nếu bạn không có hệ thống phanh thích hợp.
- Đủ rồi, đủ rồi đấy, Dario! –Malena mắng. – Cậu ăn nói nhố nhăng vừa chứ!
- Cô có biết người đó là ai không? – Tôi hỏi, cố ra vẻ thản nhiên trong lúc cảm thấy rất bứt rứt.
- Cái gã ấy à? – Malena đảo mắt, không chú ý lắm. – Cô có biết người ta nói rằng…những kẻ làm ầm ĩ như thể đang bỏ lỡ cái gì đó ở đằng kia kìa.
- Tôi không làm ầm ĩ! – Dario phản đối.
- Tôi không nói cậu, ngốc ạ! Tôi đang nói đến con muỗi mắt cưỡi xe kia kìa.
- Cô biết hắn là ai không? – Tôi hỏi lại
Cô nhún vai:
- Tôi thích đàn ông lái ô tô. Bọn phóng xe máy…chúng là những tay chơi. Đặt một cô bạn lên xe máy thì được, nhưng con cái cô, phù dâu của cô hay mẹ chồng cô thì sao?
- Ý kiến chính xác của tôi thì, - Dario nói, nhếch lông mày, - Tôi đang dành dụm để mua một cái. Đến lúc này, vài người khách khác trong hàng đằng sau tôi tỏ rõ vẻ sốt ruột, dù Malena có vẻ rất thoải mái phớt lờ hộ vì cô muốn thế, nhưng tôi quyết định hoãn những câu hỏi về gia tộc Marescotti và hậu duệ hiện nay của họ đến lúc khác.
Khi rời quán, tôi nhìn quanh tìm chiếc xe máy, nhưng chẳng thấy tăm hơi. Lẽ tất nhiên tôi không thể biết chắc, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng, đây chính là gã đã bắt nạt tôi đêm trước, và nói thật, nếu hắn thực sự là một kẻ ăn chơi đang tìm gái để ghì vào cái ấy của hắn, tôi có thể nghĩ ra nhiều cách tốt hơn để bắt đầu chuyện đó.
Cuối cùng, khi chủ nhân của hiệu sách đi ăn trưa về, tôi đang ngồi ở bậc thềm trước nhà bà, dựa vào cánh cửa, và đang định bỏ cuộc. Nhưng sự kiên nhẫn của tôi được đền bù xứng đáng vì người đàn bà ấy, - một bà già dịu dàng, vóc người mảnh khảnh – vừa nhìn cái phiếu thư mục đã gật đầu ngay lập tức.
- À, phải rồi, - bà ta nói tiếng Anh trôi chảy, không hề tỏ ra ngạc nhiên, - đây là tài liệu lưu trữ của trường đại học. Bộ sưu tập lịch sử. Tôi cho là người ta vẫn dùng bảng mục lục cũ. Để tôi xem nào, phải rồi, phiếu này ở mục Cuối thời Trung cổ. Cái này có nghĩa là địa phương. Cô nhìn đây, - bà chỉ vào mã thẻ - K là chữ cái của giá sách, còn 3-17b là số ngăn. Nhưng nó không nói rõ có cái gì trong đó. Dù sao, mã số có nghĩa như vậy đấy. –Giải quyết sự bí ẩn rất nhanh, bà ngước nhìn tôi, tưởng còn câu hỏi khác. – Sao cô lại có tấm thẻ này?
- Mẹ tôi…đúng hơn là cha tôi, là giáo sư của trường đại học. Bà biết giáo sư Tolomei không ạ?
Bà lão rạng ngời lên như một cây Giáng sinh.
- Tôi nhớ chứ! Tôi là sinh viên của ông ấy mà! Cô biết không, cha cô là một trong những người sắp xếp tất cả bộ sưu tập này. Nó rất lộn xộn. Tôi mất hai vụ hè để dán số lên các ngăn, Nhưng,…tôi không biết vì sao cô lấy thẻ này ra. Ông thường khó chịu mỗi khi người ta để các phiếu thư mục vương vãi.
Trường đại học Siena nằm rải rác khắp thành phố, nhưng nơi lưu trữ lịch sử của trường không xa hiệu sách là mấy, đi về hướng cổng thành tên là Porta Tufi. Mất một lúc tôi mới tìm đúng tòa nhà giữa bao mặt tiền kín đáo dọc con đường; cuối đường là một nơi dành cho giáo dục như miếng vá trên các tấm áp phích về chủ nghĩa xã hội ở hàng rào bên ngoài.
Hy vọng trà trộn được vào đám sinh viên, tôi qua cửa mà bà bán sách đã tả và nhằm thẳng tới tầng hầm.
Có lẽ vì vẫn đang giờ nghỉ trưa – hoặc có khi trong mùa hè chẳng mấy người lai vãng, tôi xuống cầu thang mà không gặp ai; toàn bộ nơi này mát mẻ và yên tĩnh đến mê người. Đây là việc gần như quá dễ dàng.
Chẳng có gì ngoài tấm phiếu thư mục, tôi đi qua nơi lưu trữ vài lần, cố tìm ra đúng giá sách nhưng vô hiệu. Đây là bộ sưu tập riêng biệt, bà bán sách đã giải thích, và ngay cả hồi đó, người ta cũng ít dùng đến nó. Tôi phải tìm phần biệt lập nhất, nhưng lời chỉ dẫn này rất phức tạp vì trên thực tế, mỗi phần ở nơi lưu trữ dường như đều lạnh nhạt với tôi. Ngoài ra, các giá sách tôi nhìn vào đều không có ngăn, chúng chỉ là các giá thông thường xếp đầy sách, không phải là đồ tạo tác. Và cũng chẳng có cuốn sách nào mang nhãn K 3-17b.
Sau khi đi bộ ít nhất khoảng hai mươi phút, cuối cùng tôi thử lại gần một cánh cửa xa nhất ở cuối phòng. Đó là một cánh cửa bằng kim loại được niêm phong kín, gần giống như cửa vào tầng hầm của nhà băng, nhưng tôi có thể mở ra dễ dàng, bên trong một căn phòng khác nhỏ hơn, khí hậu được điều chỉnh phần nào khiến không khí có mùi rất khác, giống một mảnh sô cô la bị bỏ xó. Cuối cùng, phiếu thư mục của tôi mới được việc. Các giá này đầy những ngăn, đúng theo cách bà bán sách miêu tả. Bộ sưu tập sắp xếp theo niên đại, bắt đầu từ thời Etruscan và chấm dứt – tôi đoán thế - vào năm cha tôi mất. Rõ ràng là chưa có người nào sử dụng nó, vì một lớp bụi dày phủ kín khắp nơi, và cái thang gấp cứ ì ra khi tôi cố kéo vì các bánh xe gỉ cứ dính vào sàn nhà. Cuối cùng, khi chịu chuyển động, nó vẫn rít lên phản đối, để lại đằng sau những vết hằn nho nhỏ màu nâu tren lớp vải sơn phủ sàn màu tím.
Tôi đặt thang cạnh giá có nhãn K và trèo lên, nhìn kỹ hơn vào hàng số 3, có khoảng hai chục ngăn cỡ vừa, tất cả đều ngoài tầm với và tầm nhìn, trừ khi ta có thang và biết chính xác cái gì cần tìm. Ban đầu có vẻ như ngăn 17b bị khóa, và sau khi gõ vài lần bằng nắm tay, nó dần lỏng hơn khiến tôi có thể kéo ra được. Rất có thể, chưa có người nào từng mở ngăn kéo này kể từ khi cha tôi đóng nó lại từ nhiều thập kỷ trước
Bên trong, tôi tìm thấy một gói to bọc bằng chất dẻo màu nâu kín hơi, kín gió. Chọc nhẹ vào, tôi cảm thấy đó là một thứ thuộc loại vải thấm nước, gần giống như túi bọt ở cửa hàng bán vải. Hoang mang, tôi rút cái gói ra khỏi ngăn, trèo xuống thang và ngồi ở bậc dưới cùng, kiểm tra các thứ vừa tìm được.
Thay vì xé toạc ra, tôi lại chọc một móng tay vào lớp chất dẻo và khoét một lỗ nhỏ. Không khí bị niêm kín xì ra, cái túi như thở dài và một góc vải màu xanh lơ bợt màu thò ra. Khoét cho cái lỗ to hơn một chút, tôi cảm nhận thớ vải bằng các ngón tay. Tuy không thạo lắm, nhưng tôi ngờ nó là lụa và rất, rất cũ dù trong điều kiện bảo quản cẩn thận.
Hiểu rõ mình đang phơi một thứ mỏng manh ra ngoài không khí và ánh sáng cùng một lúc, tôi gỡ tấm vải khỏi lớp chất dẻo và bắt đầu mở ra trên lòng. Rồi một vật rơi ra và đập xuống sàn nhà trải vải sơn, tiếng kim loại kêu lanh lảnh.
Đó là một con dao to trong bao bằng vàng, được gói kỹ trong nhiều lớp lụa. Lúc nhặt nó lên, tôi nhận ra hình một con đại bàng khảm trên cán.
Ngồi đó, nhấc vật báu bất ngờ trong tay xem nặng nhẹ, tôi bỗng nghe thấy một tiếng động ở góc đằng sau kho lưu trữ. Nhận thức được rằng mình đã xâm phạm quá dễ dàng vào nơi chắc chắn còn giữ nhiều thứ quý giá không thể thay thế, tôi đứng dậy, thở hổn hển, cảm thấy có lỗi và gói lại thứ vừa đoạt được nhanh hết mức có thể. Điều cuối cùng tôi mong muốn là không bị phát hiện trong tầng hầm khác thường, khí hậu được điều hòa với những thứ mới tìm ra trong tay.
Cố im lặng hết sức, tôi lẻn trở lại thư viện chính, kéo cánh cửa kim loại gần như đóng chặt sau lưng. Lom khom sau hàng giá sách cuối cùng, tôi chăm chú lắng nghe. Âm thanh duy nhất tôi nghe thấy là hơi thở không đều của mình. Mọi việc tôi làm là trèo lên các bậc cầu thang và rời khỏi tòa nhà, bình thản như lúc bước vào.
Tôi đã nhầm. Vừa quyết định làm thế chưa được bao lâu, tôi nghe thấy tiếng bước chân. Không phải bước chân của người thủ thư trở lại sau giờ nghỉ trưa, cũng không phải một sinh viên tìm sách, mà là tiếng chân đáng ngại của người nào đấy không muốn tôi nghe thấy hắn đang đến, kẻ lang thang trong nơi lưu trữ này còn thiếu minh bạch hơn cả tôi. Ngó qua các giá sách, tôi thấy hắn đi theo đường của tôi – vâng, đó chính là tên cặn bã đã theo dõi tôi đêm trước - đang trượt từ giá sách này đến giá sách khác, mắt hắn nhìn xoáy vào cánh cửa kim loại dẫn xuống tầng hầm. Nhưng lần này, hắn cầm một khẩu súng.
Chỉ còn vài giây là hắn sẽ đến nơi tôi đang nấp. Suýt nôn vì sợ hãi, tôi luồn theo giá sách cho đến khi tới đầu kia. Ở đây có một lối đi hẹp men tường dẫn tới bàn thủ thư, tôi cố hết sức rón rén rồi gập đôi người lại, nép sát vào đầu hẹp của một giá sách, hy vọng thoát khỏi tầm nhìn khi kẻ côn đồ đi qua trong lối đi ở đầu kia.
Lúc đứng đó, quá sợ đến mức không thở nổi, tôi phải chống chọi với sự thôi thúc phải chạy bán sống bán chết. tự buộc mình ở lại, tuyệt đối im lặng, cố đợi thêm vài giây rồi mới dám vươn ra nhìn, và tôi thấy hắn lặng lẽ lẻn vào tầng hầm.
Tuột giày ra bằng những ngón tay run rẩy, tôi vội vã chạy dọc lối đi hẹp, rẽ ngoặt cạnh bàn thủ thư và tiếp tục chạy lên cầu thang, ba bậc một, không dám dừng lại ngoảnh nhìn phía sau.
Cho đến lúc đã cách xa trường đại học và an toàn trong một phố nhỏ mờ tối, tôi mới dám chạy chậm dần, và cảm thấy phần nào nhẹ nhõm. Nhưng cảm giác ấy không kéo dài lâu. Rất có thể, đây chính là kẻ đã biến phòng tôi thành một đống rác, và thứ duy nhất hắn thấy là tôi không ngủ trên giường khi hắn tới.
Peppo Tolomei gần như sửng sốt khi hìn thấy tôi, vì tôi trở lại Bảo tàng Cú sớm hơn ông tưởng.
- Giulietta! – Ông kêu lên, đặt hiện vật và giẻ lau chùi xuống. – Có chuyện gì thế? Cái gì thế này?
Cả hai cùng nhìn cái gói hỗn độn trong tay tôi.
- Em không biết, - tôi thú nhận. – Nhưng em nghĩ nó là của cha em.
- Để đây, - ông dọn sạch một khoảng trên bàn, và rất nhẹ nhàng đặt mảnh lụa xanh xuống, để lộ con dao găm náu bên trong.
- Anh có biết cai này ở đâu ra không? – Tôi nói và cầm con dao lên.
Nhưng Peppo không nhìn vào con dao. Ông bắt đầu mở mảnh lụa bằng đôi tay cung kính. Khi nó đã được trải rộng ra toàn bộ, ông lùi lại như bị thôi miên và làm dấu.
- Cô tìm thấy cái này ở đâu vậy? – Ông nói, giọng ông không hơn gì tiếng thì thầm.
- Ùm…cái này trong bộ sưu tập của cha em ở trường đại học. Nó bọc con dao. Em không biết nó là một thứ đặc biệt.
Peppo nhìn tôi, sửng sốt:
- Cô không biết đây là gì ư?
Tôi nhìn mảnh lụa xanh kỹ hơn. Chiều dài của nó lớn hơn bề rộng rất nhiều, gần giống một biểu ngữ, bên trên in hình một phụ nữ với vầng hào quang quanh mái tóc và đôi bàn tay giơ lên ban phúc. Thời gian làm phai màu sắc, nhưng vẻ say mê của bà vẫn còn nguyên. Ngay một người tầm thường như tôi cũng biết đó là bức vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria.
- Đây là lá cờ thánh sao?
Peppo vừa nói vừa vuốt cho phẳng:
- Đây là mảnh lụa, giải thưởng lớn của Palio. Nhưng nó rất cổ. Cô có nhìn thấy các chữ số La Mã ở góc không? Đó là năm. – Ông cúi xuống đẻ xác minh con số lần nữa. – Đúng! Đức Mẹ ơi! – Ông quay sang tôi, mắt ngời sáng. – Đây không chỉ là mảnh lụa cổ, mà còn là mảnh lụa huyền thoại nhất! Ai cũng tưởng nó biến mất vĩnh viễn. Nhưng nó đây! Đây là giải thưởng ở Palio năm 1340. Một kho báu vĩ đại! Nó được lót bằng những cái đuôi nhỏ xíu của…tôi không biết tiếng Anh gọi là gì. Nhìn này, - ông chỉ vào mép lụa tả tơi, - ở đây và đây nữa. Không chỉ là những con sóc bình thường, mà là những con sóc đặc biệt. Nhưng ngày nay chúng không còn nữa.
- Thế, thứ này có đáng giá không ạ? Về mặt tiền nong ấy?
- Tiền ư? – Quan niệm ấy xa lạ với Peppo, ông nhìn tôi cứ như thể tôi đề nghị giao việc cho chúa Jesus theo giờ. – Nhưng đây là giải thường! Nó rất đặc biệt….là một vinh dự lớn lao. Từ thời Trung cổ, người thắng cuộc ở Palio nhận được một lá cờ lụa tuyệt đẹp, lót lông thú đắt tiền; người La Mã gọi nói là pallium, chính vì thế các cuộc đua của chúng tôi gọi là Pali. Nhìn này, - ông chỉ cây gậy vào một số lá cờ treo trên tường, - mỗi lần lãnh địa của chúng tôi thắng ở Palio, chúng tôi đều được một giải thường mới cho bộ sưu tập. Chúng tôi có những lá cờ cổ nhất, tới hai trăm năm tuổi.
- Thế ra các vị không có giải thưởng khác từ thế kỷ XIV sao?
- Ồ không! Peppo sôi nổi lắc đầu. – Đây là thứ rất rất đặc biệt. Cô thấy đấy, thời xa xưa, người thắng ở Palio nhận giải thưởng và quấn lên người để mừng chiến thắng. Chính vì thế tất cả đều thất lạc.
- Vậy nó phải đáng giá cái gì đó chứ, - tôi khăng khăng. – Ý em là nó quý hiếm đến thế kia mà.
- Tiền, tiền, tiền, - ông chế nhạo. –Tiền không phải là tất cả. Cô không hiểu sao? Đây là lịch sử của Siena!
Sự nhiệt tình của ông anh họ tương phản gay gắt với tâm trạng của tôi. Sáng nay, dường như tôi liều cả mạng sống vì một con dao cổ han gỉ và một lá cờ bạc màu. Phải, đây là một giải thưởng, và có giá trị như thế, gần như là một đồ tạo tác đầy ma thuật với dân Siena, nhưng, trừ phi tôi nhầm, nếu tôi nhặt được ở ngoài trường thành Siena, nó chỉ là một mảnh giẻ cũ rich vô giá trị.
- Còn con dao thì sao? –Tôi hỏi. – Trước kia anh đã từng nhìn thấy chưa?
Peppo quay bàn và cầm con dao lên.
- Cái này, - ông nói và rút dao ra khỏi vỏ rồi xem xét dưới ngọn chúc đài, - là một con dao găm. Một vũ khí rất có ích.
Ông kiểm tra hình chạm rất kỹ, gật gù một mình vì toàn bộ thứ này bắt đầu có nghĩa.
- Một con đại bàng. Tất nhiên rồi. Nó được cất giấu cùng với giải thưởng từ năm 1340. Tưởng như tôi nên sống để nhìn thấy thứ này. Tại sao ông ấy không bao giờ cho tôi xem nhỉ? Tôi cho rằng ông biết tôi sẽ nói gì. Những báu vật này thuộc về toàn thể thành phố Siena, chứ không chỉ của gia tộc Tolomei.
- Anh Peppo, - tôi nói và lau trán, - em biết làm gì với thứ này?
Ông nhìn tôi, cái nhìn của ông xa vời lạ lùng, dường như một phần ông là hiện tại, còn một phần ở năm 1340.
- Cô có nhớ tôi đã kể cha mẹ cô tin rằng Romeo và Juliet sống ở đây, ở Siena không? Năm 1340 có một Palio gây nên nhiều tranh cãi. Người nói giải thưởng biến mất – giải thưởng đây này – và một kỵ sĩ đã chết trong cuộc đua. Nghe nói Romeo đấu trong Palio ấy, và tôi nghĩ đấy chính là con dao găm của chàng.
Lúc này, sự tò mò của tôi đã át nỗi thất vọng.
- Chàng thắng chứ?
- Tôi không chắc. Có người nói chàng là người chết. Nhưng hãy nhớ lấy lời tôi, - Peppo nhìn tôi, mắt nheo lại, - nhà Marescotti sẽ làm mọi việc để được đặt tay lên cái này.
- Ý anh là, nhà Marescotti hiện đang sống ở Siena ư?
Peppo nhún vai:
- Dù cô tin mảnh lụa này là gì đi nữa, thì con dao găm chính xác là của Romeo. Nhìn hình chạm con đại bàng trên cán dao xem? Cô có hình dung được một báu vật như thế này lại thuộc về họ không?
- Em cho rằng có thể trả nó…
- Không! – Lúc này, niềm hân hoan ngây ngất trong mắt anh họ tôi nhường chỗ cho nhiều cảm xúc mà chẳng còn mê mẩn là mấy. – Cô phải để nó lại đây! Đây là một báu vật và bây giờ thuộc về toàn thành phố Siena, không chỉ của lãnh địa Đại bàng hoặc nhà Marescotti. Cô mang nó đến đây là rất hay.Chúng tôi phải thảo luận việc này với toàn thể các quan chức địa phương của các lãnh địa. Họ rất hiểu biết. Trong thời gian này, tôi sẽ để báu vật này vào két an toàn tránh xa ánh sáng và không khí. – Ông bắt đầu sốt sắng gập mảnh lụa lại. – Tôi hứa với cô, tôi sẽ trông nom nó hết sức cẩn thận. Két an toàn của chúng tôi rất chi là an toàn.
- Nhưng cha mẹ em để nó lại cho em…- tôi liều phản đối.
- Phải, phải, phải, nhưng đây không phải là thứ nên thuộc về bất cứ người nào. Cô đừng lo, các quan chức sẽ biết làm gì.
- Thế còn..
Peppo nghiêm khắc nhìn tôi.
- Tôi là cha đỡ đầu của cô. Cô không tin tôi sao?
Con thấy thế nào? Liệu con có ưng chàng quý tộc này không?
Tối nay con sẽ thấy chàng ở buổi dạ tiệc nhà ta
--- --------oOo---- -------
Siena, 1340 Công nguyên
Với danh họa Ambrogio, đêm trước lễ Đức Mẹ lên Trời thiêng liêng chẳng khác gì đêm trước lễ Giáng sinh. Suốt lễ vọng ban đêm, cả giáo đường Siena vốn tối tăm nay được thắp sáng huy hoàng với những cây nến lễ khổng lồ - một số cây nặng hơn hai mươi kilo – khi một đoàn diễu hành dài từ các lãnh địa đổ về gian giữa của giáo đường, tiến thẳng tới bàn thờ bằng vàng để tôn vinh Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, nữ thần bảo hộ Siena và kỳ niệm ngày bà lên Trời.
Ngày mai chính thức là lễ Đức Mẹ lên Trời, tòa giáo đường uy nghi sẽ được chiếu sáng bằng một rừng đuốc bập bùng khi chư hầu từ các thị trấn và làng mạc xung quanh mang đồ cống nạp tới. Hàng năm vào ngày này, ngày Mười lăm tháng Tám, luật pháp sau khi tính toán cẩn thận sẽ buộc họ cống một số lượng nến sáp ong nhất định để dâng lên nữ thần thiêng liêng của Siena, các quan chức nghiêm khắc của thành phố sẽ có mặt trong giáo đường để bảo đảm rằng mỗi thị trấn và làng mạc trực thuộc nộp đủ số nến quy định. Giáo đường được chiếu sáng bằng muôn vàn ngọn lửa thiêng chỉ thêm khẳng định một điều với những người xa lạ rằng; Siena là một nơi vẻ vang, được một nữ thần đầy quyền uy bảo trợ, và được là người tùy tùng của Người cũng vô cùng đáng giá.
Danh họa Ambrogio thích buổi lễ vọng ban đêm hơn cuộc diễu hành ban ngày. Có một cái gì đó thần diệu diễn ra khi quần chúng mang ánh sáng vào bóng tối, sự xúc động lan vào mọi ngóc ngách tâm hồn họ và nếu nhìn kỹ, có thể thấy cả điều kỳ diệu trong mắt họ.
Nhưng tối nay, ông không thể tham gia đoàn diễu hành như thường lệ. Từ khi ông vẽ các bức bích họa lớn trong cung Pubblico, giới quan chức địa phương đối xử với ông như người cùng hội cùng thuyền – chắc chắn vì họ muốn ông vẽ họ thật đẹp và tôn vinh họ - và thế là ông phải ở đây, trên bậc đài vọng với chín quan chức Biccherna, phụ trách chiến tranh, phụ trách dân chúng. Niềm an ủi duy nhất là địa vị cao cho phép ông nhìn toàn cảnh ban đêm; các nhạc công mặc đồng phục đỏ tươi, các tay trống và những người liệng cờ đeo gia huy, các thầy tu khoác áo choàng óng ả, cuộc diễu hành trong ánh nến cứ tiếp diễn cho đến khi mọi lãnh địa tỏ lòng tôn kính nữ thần đã dang rộng tà áo che chở cho tất cả.
Chắc chắn gia tộc Tolomei dẫn đầu đoàn diễu hành từ lãnh địa San Cristoforo. Gia huy của họ màu đỏ và vàng, ngài Tolomei và phu nhân bước vào gian giữa của giáo đường và tiến thẳng tới ban thờ chính, hành xử hệt như bậc vương giả tiến đến ngai vàng. Một nhóm các thành viên trong gia đình đi ngay sau họ, và chẳng mấy chốc danh họa Ambrogio phát hiện ra Giulietta trong số đó. Dù mái tóc nàng phủ tấm lụa xanh lơ – màu xanh trong trắng và uy nghi của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria – và dẫu mặt nàng chỉ được chiếu sáng bằng một cây nến sáp nhỏ trong đôi bàn tay ngoan đạo chắp lại, vẻ kiều diễm của nàng vẫn dễ dàng làm lu mờ mọi thứ xung quanh, kể cả những của cải đẹp đẽ của các anh chị họ nàng.
Nhưng Giulietta không để ý đến những cái nhìn ngưỡng mộ hướng theo nàng suốt dọc đường đến bàn thờ. Nàng chỉ nghĩ đến Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, trong lúc mọi người quanh nàng tiến thẳng tới ban thờ cao với vẻ mãn nguyện của người dâng lễ, mắt cô gái chú mục xuống sàn cho đến lúc quỳ cùng các anh chị họ và trao cây nến của mình cho các thầy tế.
Lúc đứng dậy, nàng khẽ nhún gối chào hai lần và quay mặt về phía mọi người. Chỉ đến lúc này, hình như mới chú ý đến vẻ huy hoàng xung quanh, nàng có vẻ hơi xao xuyến dưới mái vòm mênh mông, chăm chú nhìn mọi vật và mọi người với vẻ tò mò, lo lắng. Danh họa Ambrogio không mong gì hơn được ào tới, dâng nàng sự giúp đỡ khiêm nhường của ông, nhưng lễ nghi phép tắ đòi hỏi ông phải ở nguyên tại chỗ, và chỉ được phép thưởng thức vẻ đẹp của nàng từ xa.
Ông không phải là người duy nhất chú ý đến nàng. Các quan chức đang bận rộn đàm phán và bắt tay cũng im bặt khi nhìn thấy gương mặt rạng rỡ của Giulietta. Bên dưới đài vọng, ngay cả ngài Salimbeni trang trọng cũng phải quay nhìn thứ làm tất cả lặng ngắt.. Lúc ngắm cô gái, một vẻ hài lòng, thích thú lan trên mặt ông ta, và đúng lúc ấy, Salimbeni nhớ tới bậc thầy vẽ bức bích họa đã làm ông chú ý, - khi ông còn trẻ và ngốc nghếch – trong một ngôi nhà có tiếng là xấu xa. Cách vẽ miêu tả thần Dionysus đang giáng trần xuống hòn đảo Naxos, tìm công chúa Ariadne bị người tình Theseus phản bội và bỏ rơi ở đó.
Truyền thuyết về cuộc gặp gỡ giữa nàng và vị thần rất mơ hồ một số người thích nghĩ họ hòa thuận, đằm thắm bay đi với nhau còn những người khác hiểu rằng cuộc gặp gỡ giữa con người và các vị thần đa tình có bao giờ kết thúc hạnh phúc đâu.
So Salimbeni với một vị thần có lẽ là sự so sánh quá tử tế, làm rạng danh cho ông ta. Nhưng hồi đó, các vị thần ngoại giáo cổ xưa không hề nhân từ và thân thiện. Dẫu Dionyss là thần rượu và được tán dương, ngài cũng sẵn sàng biến mình thành vị thần của sự điên rồ, một sức mạnh kinh khủng của tự nhiên có thể cám dỗ đàn bà chạy lao vào rừng và xé thịt thú bằng tay không.
Lúc này, Salimbeni đứng đó ngắm Giulietta đi qua nền giáo đường, cái nhìn xấc láo của ông ta tỏ ra nhân từ và dạt dào, nhưng nhà danh họa có thể thấy dưới bộ áo lộng lẫy của người đàn ông, sự biến dạng đang diễn ra.
Nhà danh họa nghe thấy một trong chín vị quan chức lẩm bẩm.
- Này, Tolomei lạ thật đấy. Ông ta nhốt kín cô nàng ở chỗ nào suốt thời gian này thế nhỉ?
- Đừng đùa, - Niccolio Patrizi, vị quan chức già nhất nói. –tôi nghe nói cô ấy bị bọn Salimbeni làm cho mồ côi. Chúng tấn công nhà cô gái trong lúc cô ấy đi xưng tội. Tô biết rõ cha cô ta. Ông ấy là một người đàn ông hiếm có. Chưa bao giờ tôi lung lạc được sự liêm chính của ông ấy.
Người khác khịt mũi:
- Ngài có chắc là cô nàng kia không? Đời nào Salimbeni để một viên ngọc như thế tuột khỏi kẽ tay?
- Tôi biết chắc cô ấy được một giáo sĩ cứu mạng. Tôi đã trả lời cho cả hai. – Niccolino Patrizi thở dài và nhấp một ngụm vang trong cái ly bằng bạc. – Tôi chỉ mong chuyện này không bùng lên mối thù truyền kiếp lần nữa, hiện giờ chúng ta phải kìm nó lại,
Ngài Tolomei nghĩ đến những tuần lễ qua mà sợ. Ngài thừa biết trong buổi lễ vọng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria lên trời, ngài sẽ phải đối mặt với kẻ thù, những tên Salimbeni đáng ghê tởm nhất, và lòng tự trọng đòi hỏi ngài phải trả thù cho cái chết của gia đình Giulietta. Sau khi cúi chào trước bàn thờ, ngài tiến thẳng tới chỗ đài vọng, tìm Salimbeni trong số các nhà quý tộc đang tập hợp ở bên dưới.
- Chào ông bạn thân mến! – Salimbeni dang rộng hai tay, cử chỉ rất thân ái khi nhìn thấy kẻ thù cũ đang đến gần. – Tôi hy vọng gia đình ông vẫn mạnh khỏe chứ?
- Hầu như thế, - Tolomei đáp, hàm ông nghiến chặt. – Tôi chắc ông có nghe đồn gần đây có người mải mê bạo lực?
- Tôi có nghe, - Salimbeni nói, cử chỉ thân thiện biến thành cái nhún vai tùy tiện, - nhưng tôi chẳng bao giờ tin lời đồn đại.
- Còn tôi sẽ may mắn hơn, - Tolomei đáp lại, cả vóc người lẫn thái độ đều cao vút lên và không thể kiềm chế nổi, - vì tôi phải tận mắt chứng kiến người sẵn sàng đặt cả hai bàn tay lên Kinh Thánh mà thề -Thực ư? – Salimbeni ngoảnh đi như thể đã chán đề tài này. – Tòa án nào lại xuẩn ngốc đến mức nghe những lời thề ấy?
Tiếp theo câu hỏi là sự im lặng đầy ẩn ý. Tolomei và mọi người xung quanh đều biết ông đang bị một thế lực có khả năng nghiền nát và hủy hoại mọi thứ ông có – tính mạng, tự do và tài sản, - vấn đề chỉ là thời khắc. Các vị quan chức sẽ chẳng làm gì để bảo vệ Tolomei. Trong các két riêng của họ có quá nhiều vàng nhà Salimbeni, và sẽ còn đến nhiều hơn nữa vì không ai trong số họ mong kẻ bạo ngược kia sụp đổ. – Ông bạn thân mến ơi, - Salimbeni nói tiếp, nụ cười tự mãn, nhân từ trở lại, - tôi hy vọng ông không để những sự việc xa xưa ấy phá hỏng buổi tối của ông. Ông nên lấy làm mừng vì những ngày giao chiến giữa chúng ta đã chấm dứt, chúng ta có thể bước vào một tương lai thái bình và thấu hiểu nhau.
- Ông gọi cái này là thái bình và thấu hiểu ư?
- Có lẽ chúng ta có thể cân nhắc..- Salimbeni nhìn qua căn phòng về phía cô gái, và tất cả mọi người có mặt. – trừ Tolomei – đều nhìn thấy thứ ông ta đang nhắm tới, - việc đánh dấu hòa bình của chúng ta bằng một cuộc hôn nhân chăng?
- Tất nhiên! – Trước kia Tolomei đã đưa ra đề xuất này vài lần, nhưng lúc nào cũng bị từ chối. Ông hình dung nếu hòa trộn dòng máu của Salimbeni với Tolomei chắc chắn hai dòng họ sẽ bớt phải đổ máu hơn. Nóng lòng muốn rèn khi sắt đang nóng, ông sốt ruột gọi vợ ở đầu kia căn phòng. Phải vẫy mấy lần, phu nhân Antonia mới tin những người đàn ông muốn bà có mặt, bà lo lắng, khép nép đến chỗ Salimbeni như một nô lệ trước mặt vị chủ nhân dễ thay đổi tính khí
-Ngài Salimbeni thân mến của tôi đề nghị hai gia đình chúng ta kết thân. – Tolomei giải thích với bà. – Phu nhân nghĩ sao? Đây chẳng phải là việc tuyệt vời sao?
Phu nhân Antonia vặn đôi tay, vẻ háo hức nịnh bợ. -Vâng, đúng thế ạ. Một việc tuyệt vời.
Bà suýt nhún gối cúi chào Salimbeni trước khi nói chuyện trực tiếp với ông ta.
- Vì ngài có lòng nói đến chuyện cầu hôn, chúng tôi có một đứa con gái vừa tròn mười ba, tuy nó không hoàn toàn phù hợp với anh Nino rất điển trai của ngài. Con bé ít nói nhưng mạnh khỏe. Nó ở đằng kia, - phu nhân Antonia chỉ qua sàn, - cạnh Tebaldo, trưởng nam của tôi đấy ạ. Nếu ngài không ưng con bé, nó còn cô em gái hiện giờ mười một tuổi.
- Cảm ơn lời mời hào phóng của bà, phu nhân thân mến ạ, - Salimbeni nói, cúi đầu rất lịch thiệp, - nhưng tôi không nghĩ đến con trai tôi. Tôi đang nghĩ cho chính tôi kia.
Cả Tolomei lẫn phu nhân Antonia đều ngớ người, kinh ngạc không thốt nên lời. Mọi người xung quanh cũng không thể tin nổi, song họ vội kìm lại, chỉ bật lên những tiếng xì xào bồn chồn, ngay cả trên đài vọng, tất cả đều theo dõi sự việc tiến triển bên dưới với vẻ lo ngại căng thẳng.
- Cô gái kia là ai vậy? – Salimbeni nói tiếp, rõ ràng không hay biết đến chấn động bên dưới. Ông ta hất đầu về phía Giulietta. – Trước kia, cô ta đã có chồng chưa?
Cơn giận cũ của Tolomei trở lại trong giọng nói của ông:
- Đấy là cháu gái tôi. Nó còn lại một thân một mình sau những sự kiện bi thảm mà tôi vừa nhắc tới. Tôi tin rằng nó sống chỉ để tìm cách báo thù những kẻ đã tàn sát gia đình nó.
- Tôi hiểu. – Trông Salimbeni không hề nao núng. Trái lại, hình như ông ta còn cảm thấy thích thú với thách thức đó. – Cô ta là người có chí khí nhỉ?
Phu nhân Antonia không thể nín lặng lâu hơn, bà sốt sắng dấn tới.
- Rất mạnh mẽ, thưa ngài. Một cô gái rất khó ưa đấy ạ. Tôi tin rằng ngài nên chọn một trong các con gái của tôi thì hơn. Chúng sẽ không phản đối.
Salimbeni mỉm cười, hầu như nói với chính mình. - Như vậy, tôi thích được phản đối hơn.
Dù ở xa, Giulietta cũng cảm thấy nhiều ánh mắt đang đổ dồn vào nàng, và nàng không biết trốn đi đâu để tránh sự soi mói. Hai bác nàng đã bỏ cả họ hàng để hòa vào đám quý tộc, và nàng có thể thấy họ đang trò chuyện với một người toát lên sự phong lưu và cao thượng của một hoàng đế, nhưng lại có cái nhìn tham lam và them khát của thú dữ. Điều đáng lo là cái nhìn của người ấy cứ chốc chốc lại xoáy vào nàng.
Tìm chỗ náu đằng sau một cây cột, nàng hít vài hơi thật sâu và thầm nhủ mọi việc thế là ổn. Sáng hôm nay, tu sĩ Lorenzo đã đưa cho nàng bức thư của Romeo nói rằng cha chàng, sĩ quan chỉ huy Marescotti sẽ gặp ông bác Tolomei của nàng để cầu hôn càng sớm cùng tốt. Từ lúc nhận được bức thư đó, nàng chỉchăm chăm cầu xin Chúa Trời để cuộc cầu hôn được chấp thuận và tình trạng lệ thuộc của nàng vào gia đình Tolomei sẽ trở thành quá khứ.
Ngó nhìn từ sau cây cột, Giulietta có thể nhận ra chàng Romeo tuấn tú của nàng trong đám các nhà quý tộc, trừ phi nàng nhầm, chàng đang vươn người và nhìn quanh tìm nàng, và hình như mỗi lúc càng thêm bực tức vì không thấy nàng ở đâu. Đứng cạnh chàng là một người đàn ông chỉ có thể là phụ thân của chàng. Nàng cảm thấy niềm vui dâng tràn khi nhìn thấy họ, biết rằng cả hai quyết thỉnh cầu nàng trở thành người nhà họ. Khi nhìn thấy họ tiến tới chỗ ông bác Tolomei, nàng đã cố dằn lòng. Kín đáo tiến đến gần hơn, từ cây cột này sang cây cột khác, nàng cố lại gần để nghe được câu chuyện của những người đàn ông mà không bị họ phát hiện. May cho nàng, họ đang mải mê với chủ đề hấp dẫn nên chẳng chú ý gì.
- Chào chỉ huy! – Bác Tolomei của nàng kêu to khi nhìn thấy cha con Marescotti tiến tới. – Hãy cho chúng tôi biết kẻ thù có đang ở các cổng không đây?
- Kẻ thù đã ở ngay đây, - sĩ quan chỉ huy Marescotti đáp, và lịch sự gật đầu với người đàn ông có cặp mắt ác thú đang đứng cạnh bác nàng, – Tên nó là tham nhũng, và nó không chịu dừng lại ngoài cổng. – Ông ngừng giấy lát, để mọi người cười phá lên. – Thưa ngài Tolomei, có một việc tế nhị mà tôi muốn bàn bạc với ngài. Việc riêng thôi. Khi nào tôi có thể đến thăm ngài?
Tolomei nhìn sĩ quan Marescotti, tỏ rõ sự khó hiểu. Nhà Marescotti có thể không giàu có như nhà Tolomei, nhưng ngọn đuốc lịch sử chiếu sáng tên tuổi họ, và cây phả hệ của gia tộc Marescotti chắc đã phát triển về phía Charlemagne từ năm thế kỷ trước, nếu không phải ở chính Eden. Chắc Giulietta sẽ rất vui nếu bác Tolomei của nàng bước vào công cuộc làm ăn với một người mang tên tuổi tầm cỡ ấy. Thé là ông quay lưng lại người đàn ông có cái nhìn của thú dữ và dang rộng đôi tay:
- Xin hã
Những ngày nóng nực này dễ làm ta bực bội điên rồ
--- --------oOo---- -------
Tôi trở lại lâu đài đầy những bóng ma đang thì thào. Như thường lệ, giấc mơ ấy đưa tôi đi hết phòng này sang phòng khác, nhìn ngó mọi nơi vì những người tôi biết đều đã ở đó, mắc kẹt y hệt tôi. Điều mới mẻ lần này, các cánh cửa mạ vàng đã tự mở ra dù tôi chưa kịp chạm đến chúng. Dường như trong không gian đầy những bàn tay vô hình chỉ đường và kéo tôi đi cùng.Thế là tôi cứ đi, đi mãi, qua các hành lang thênh thang và những phòng khiêu vũ trống vắng, cho đến nay vẫn là những phần chưa được phát hiện của lâu đài, và cuối cùng, tôi đến một cánh cửa rộng, vững chãi. Có lẽ đây là lối ra chăng?
Tôi ngắm khung sắt nặng nề trên cánh cửa và giơ tay định thử mở chốt. Nhưng tôi chưa kịp chạm tới, cánh cửa không khóa đã bật mở, lộ ra một khoảng không tối tăm, rộng rãi.
Dừng lại trên ngưỡng cửa, tôi liếc vào bên trong và cố nhìn xem có thấy thứ gì giúp tôi nhận ra tôi đã ra ngoài hay chỉ đang ở một phòng khác. Tôi đứng đó, chẳng thấy gì và khi chớp chớp mắt, một luồng gió lạnh lẽ từ bóng tối phía trước ào tới, cuộn quanh và giật lấy chân tay khiến tôi loạng choạng. Tôi vồ lấy khung cửa bám cho chắc, luồng gió mạnh đến mức giật tung tóc và quần áo tôi, hú lên giận dữ như thể muốn cuốn phăng tôi qua rìa cửa. Sức mạnh của nó kinh khủng đến mức khung cửa bắt đầu bung ra và sàn nhà vỡ vụn dưới chân tôi. Vật lộn để được an toàn, tôi buông khung cửa và cố chạy trở về bên trong lâu đài, nhưng một dòng ma quỷ vô hình, vô tận – rú tít, nhạo báng các đoạn trích dẫn Shakespeare mà tôi biết rất rõ – nhung nhúc mọi phía quanh tôi, hóa hức thoát khỏi lâu đài và kéo tuột tôi vào cơn tỉnh thức của chúng.
Tôi ngã soài trên sàn và trượt trở lại, cố vồ lấy thứ gì đó chắc chắn để bám giữ. Lúc tôi trượt qua rìa, một người nào đó mặc bộ quần áo mô tô màu đen lao thẳng tới, chộp lấy cánh tay tôi và kéo lên.
- Romeo! – Tôi kêu lên, túm lấy anh ta, nhưng khi ngước nhìn, tôi chảng thấy gì sau tấm kính che mặt của mũ bảo hiểm, mà chỉ thấy trống rỗng.
Sau đó, tôi ngã xuống, xuống, xuống mãi…cho đến khi rơi xuống nước. Một lần nữa, tôi lại có mặt trên bến du thuyền ở Alexandria, Virginia, năm tôi lên mười, suýt chết đuối trong đám rong biển và rác rưởi trong lúc Janice và các bạn nó đứng trên cầu tàu, ăn kem và cười cợt, reo hò.
Lúc tôi vừa ngoi được lên khỏi mặt nước, cố hết sức nắm lấy dây neo, tôi thở hổn hển và …thức giấc, thấy mình đang nằm trên đi-văng của danh họa Lippi, một tấm chăn ngứa ngáy thắt nút quanh chân tôi và con Dante đang liếm bàn tay tôi.
- Xin chào, - nhà danh họa nói và đặt cốc cà phê trước mặt tôi. – Dante không thích Shakespeare đâu. Nó là một con chó rất thông minh.
Cuối buổi sáng hôm ấy, khi tôi trở lại khách sạn, mặt trời rực rỡ dẫn đường cho tôi, những sự việc đêm trước hình như hư ảo đến kỳ cục, như thể tất cả chỉ là buổi diễn của một nhà hát khổng lồ, dàn cảnh làm vui cho ai đó. Bữa tối với mẹ con nhà Salimbeni, cuộc chạy trốn qua những đường phố tăm tối, nơi trú ẩn kỳ dị của tôi trong xưởng vẽ của danh họa Lippo…tất cả là chất liệu tạo nên cơn ác mộng, chứng cứ duy nhất cho thấy mọi sự đã thực sự xảy ra là bùn đất và những vết cào xước ở lòng bàn chân tôi.
Điểm mấu chốt là nó đã xảy ra, và tôi phải ngừng ru ngủ mình bằng cảm giác an toàn giả dối càng sớm càng tốt. Đây là lần thứ hai tôi bị theo dõi, lần này không phải là một gã hú họa nào đó mặc thường phục mà là một gã phi xe máy cừ khôi, dù chưa hiểu mục đích của gã là gì. Một vấn đề đang trở nên nghiêm trọng hơn hết thảy là Allessandro. Người biết rõ biên bản hình sự của tôi và không do dự dùng nó để chống lại tôi, nếu tôi đến bất cứ nơi nào gần bà mẹ đỡ đầu quý hóa của anh ta.
Có mọi lý do thích hợp để thoát khỏi địa ngục này, nhưng Julie Jacobs không phải là người dễ bỏ cuộc và tôi có thể cảm thấy Giulietta Tolomei cũng vậy. Sau cùng, một kho báu khá đáng giá đang bị đe dọa, nếu câu chuyện của danh họa Lippi là thật thì tôi sẽ có khả năng tìm ra ngôi mộ của Juliet rồi đặt tay lên pho tượng có cặp mắt bằng ngọc bích đó.
Có khi pho tượng ấy chỉ là một huyền thoại. Có lẽ trong thực tế, đây là cuộc khám phá mà một số kẻ dở người tin rằng tôi có quan hệ với nhân vật nữ của Shakespeare, tưởng là có một phần thưởng lớn đang đợi tôi ở đoạn cuối của mọi thử thách gay go này. Bà Rose thường than phiền rằng, dù tôi có thể thuộc lòng vở kịch của Shakespeare cả xuôi lẫn ngược, tôi vẫn không thực sự quan tâm đến văn chương hoặc tình yêu, và bà quả quyết rằng, đến một ngày kia tôi sẽ nhìn thấy sự thật to lớn, sáng lóa rọi chiếu mọi sai lầm của tôi.
Một trong những hồi ức đầu tiên của tôi về bà Rose là vào lúc đêm hôm khuya khoắt, bà hay ngồi bên cái bàn to bằng gỗ gụ, bên cạnh một ngọn đèn lẻ loi cháy sáng để xem cái gì đó rất cẩn thận bằng kính lúp. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác chân con gấu bông nắm chặt trong bàn tay của tôi, và nỗi sợ bị bắt trở lại giường. Lúc đầu bà không nhìn thấy tôi, nhưng lúc phát hiện ra tôi, bà giật mình như thể tôi là một con ma nhỏ đang ám bà. Điều tiếp theo tôi nhớ là được ngồi trong lòng bà nhìn vào một tờ giấy trải rất rộng.
- Nhìn đây này, - bà nói, và giữ cái kính lúp cho tôi. – Đây là cây phả hệ của gia tộc chúng ta, còn đây là mẹ cháu.
Tôi còn nhớ sự háo hức, kích động rồi sau đó là nỗi thất vọng chua chát. Không phải là một tấm ảnh của mẹ tôi, mà chỉ là một dòng chữ, còn tôi hồi đó vẫn chưa biết đọc.
- Nó nói gì đấy ạ? – Chắc là tôi hỏi thế, vì tôi nhớ rất rõ câu trả lời của bà Rose.
- Nó nói rằng, - bà nói với một vẻ rất kịch, hiếm thấy, - “Bác Rose yêu quý, xin vui lòng nhận trông nom con gái bé bỏng của cháu. Nó rất đặc biệt. Cháu nhớ nó vô cùng”. – Tôi kinh hãi vì lúc đó, tôi nhận ra bà đang khóc. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người lớn khóc. Cho đến hồi đó, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng người lớn lại có thể khóc.
Khi Janice và tôi lớn hơn, bà Rose kể cho chúng tôi nghe một mẩu chuyện kỳ quặc về mẹ tôi, nhưng không bao giờ là hình ảnh trọn vẹn. Một hôm, sau khi vừa vào đại học và đã có chút chính kiến, vào một ngày đặc biệt đẹp trời, chúng tôi đưa bà ra khỏi nhà, mời bà ngồi vào ghế trong vườn, với cà phê và bánh xốp trong tầm với, rồi mới cố tình xin bà kể cho nghe toàn bộ câu chuyện. Đây là một khoảnh khắc hợp lực hiếm hoi giữa hai chị em tôi. Chúng tôi cùng tới tấp hỏi bà: Ngoài sự thật cha mẹ tôi chết trong một tai nạn xe hơi, cha mẹ tôi trông như thế nào? Tại sao chị em tôi không bao giờ được lien lạc với những người họ hàng ở Italy, trong khi hộ chiếu của chúng tôi ghi rõ chúng tôi sinh ra ở đấy?
Bà Rose ngồi im lìm, lắng nghe những câu hỏi dồn dập của chúng tôi và không động đến miếng bánh nào; khi bà nghe hết, bà gật đầu:
- Các cháu có quyền hỏi những câu như thế, và sẽ có ngày, các cháu có được câu trả lời thảo đáng. Nhưng lúc này, các cháu phải kiên nhẫn. Ta kể về gia đình các cháu rất ít vì muốn tốt cho các cháu thôi.
Tôi không thể hiểu nổi vì sao biết mọi điều về gia đình mình lại là xấu. Chí ít thì chỉ một chút cũng được. Nhưng tôi tôn trọng sự bực dọc của bà Rose về dòng dõi nên cố kìm nén những xung đột khó hiểu cho đến sau này. Một ngày nào đó, tôi sẽ mời bà ngồi và yêu cầu bà giải thích. Một ngày nào đó, bà sẽ kể cho tôi nghe hết mọi chuyện. Ngay cả khi bà sắp tám mươi tuổi, tôi vẫn mong rồi sẽ có ngày bà trả lời mọi câu hỏi của chúng tôi. Nhưng giờ đây, tất nhiên là bà không thể nữa rồi.
Lúc tôi bước vào khách sạn, giám đốc Rossini đang nghe điện thoại ở phòng đằng sau; tôi dừng lại chốc lát, đợi ông ra. Trong lúc đi bộ từ xưởng vẽ của danh họa Lippi về, tôi nghĩ tới nghĩ lui những diễn giải của người họa sĩ về vị khách đêm khuya tên là Romeo, và kết luận rằng đây là lúc tốt nhất để tôi bắt đầu nghiên cứu về gia tộc Marescotti và hậu duệ hiện nay của họ, nếu có thể.
Tôi hình dung, bước hợp lý đầu tiên là hỏi giám đốc Rossini về cuốn danh bạ điện thoại ở địa phương, và tôi định sẽ làm ngay. Nhưng sau khi đợi khoảng mươi phút, cuối cùng tôi bỏ ý định đó và đến quầy lấychìa khóa phòng treo trên tường.
Giận mình vì đã không hỏi danh họa Lippi cặn kẽ về gia tộc Marescotti lúc có cơ hội, tôi chậm rãi lên cầu thang, những vết rách ở lòng bàn chân làm tôi nhức nhối trong từng bước đi. Tôi không có thói quen đi giày cao gót, nhất là trên những dặm đường tôi đã đi qua trong hai ngày vừa rồi. Tuy nhiên, ngay khi mở cửa phòng, tôi quên bẵng mọi nỗi đau đớn. Căn phòng bị đảo lộn từ dưới lên trên, có khi cả từ trong ra ngoài.
Chắc chắn đã có một kẻ đột nhập – nếu không phải là cả một nhóm – đã kéo bật cửa tủ áo và lôi các thứ nhồi trong gối ra để tìm thứ chúng muốn, quần áo, đồ linh tinh và các thứ trong buồng tắm rải rác khắp nơi, một số đồ lót mới của tôi còn treo lòng thong trên ngọn chúc đài.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái va-li bị nổ bom, nhưng tôi chắc rằng quang cảnh này trông giống như thế..
- Cô Tolomei! – Cuối cùng, giám đốc Rossini thở hổn hển, vát vả để đuổi kịp tôi, - Nữ bá tước Salimbeni gọi đến hỏi xem cô có khá hơn không, nhưng…lạy Đức Mẹ! – vừa nhìn thấy cảnh tàn phá trong phòng tôi, ông quên bẵng mất mọi điều định nói, và cả hai chúng tôi đứng đó trong giây lát, lặng lẽ, kinh hoàng, nhìn đăm đăm vào mọi thứ.
- Vậy đấy, - tôi nói, nhận ra mình có một khán giả, - ít nhất thì bây giờ tôi không phải mở va li ra nữa.
- Kinh khủng quá! –giám đốc Rossini kêu lên. – Nhìn này! Bây giờ người ta sẽ nói rằng khách sạn không an toàn! Ấy, cẩn thận, kẻo giẫm phải thủy tinh!
Sàn nhà đầy những mảnh kính của cửa ban công bị đập vỡ. Rõ ràng kẻ đột nhập đến vì cái hộp của mẹ tôi, và cố nhiên là cái hộp đã biến mất, nhưng câu hỏi là tại sao hắn tiếp tục sục sạo căn phòng của tôi như thế. Hắn còn lục tìm thứ gì đó ngoài cái hộp chăng?
- Đồ ngốc! – Giám đốc Rossini thở dài. – Giờ tôi phải gọi điện cho cảnh sát, họ sẽ tới và chụp ảnh, rồi báo chí sẽ viết rằng khách sạn Chiusarelli không an toàn!
- Đợi đã! – Tôi nói. – Ông đừng gọi cảnh sát. Không cần đâu. Chúng ta biết bọn chúng đến vì cái gì rồi.
Tôi đến bên cái bàn đã để chiếc hộp. – Chúng sẽ không trở lại nữa đâu. Bọn khốn khiếp.
- Ồ! – Giám đốc Rossini chợt tươi nét mặt. – Tôi quên kể với cô rồi! Hôm qua, chính tôi đích thân đưa các va-li của cô lên…
- Vâng, tôi có nhìn thấy.
- …và tôi nhận thấy cô có một thứ đồ cổ rất đắt tiền trên chiếc bàn đó. Thế là tôi đã tự ý mang nó ra khỏi phòng này và cất trong két an toàn của khách sạn. Tôi mong cô không phiền chứ? Bình thường, tôi không can thiệp vào…
Tôi nhẹ cả người đến mức không nghĩ đến việc nổi giận và sự can thiệp của ông hoặc kinh ngạc vì tầm lo xa của ông. Thay vào đó, tôi nắm lấy vai ông: :
- Cái hộp vẫn ở đây ư?
Không còn nghi ngờ gì nữa, khi theo giám đốc Rossini xuống văn phòng của ông, tôi thấy cái hộp của mẹ tôi nằm rất gọn và khít trong két an toàn của khách sạn, giữa các sổ sách kế toán và các cây chúc đài bằng bạc.
- Ông phúc đức quá, - tôi nói, thật lòng, - cái hộp này rất quan trọng.
- Tôi biết, - ông nghiêm trang gật đầu. – Bà tôi có một cái giống y như cái này. Người ta không còn sản xuất chúng nữa. Đây là món đồ cổ truyền thống của Siena. Chúng tôi gọi là hộp bí mật, vì chúng có nhiều ngăn để giấu đồ. Cô có thể giấu cha mẹ nhiều thứ. Hoặc các con. Hoặc bất cứ người nào khác.
- Ông định nói là…nó có một ngăn bí mật ư?
- Phải! – giám đốc Rossini cầm chiếc hộp và bắt đầu săm soi. – Tôi sẽ chỉ cho cô. Cô phải là một người Siena mới biết cách tìm ra, vì nó giấu rất khéo. Không bao giờ ở cùng một chỗ. Hộp của bà tôi có ngăn ở bên cạnh, ngay đây này…nhưng cái hộp này thì khác. Nó đòi hỏi phải khéo léo. Để tôi xem nào….không phải ở đây…không ở đây...-Ông ta kiểm tra kỹ lưỡng cái hộp ở mọi góc độ, thích thú với việc mò mẫm, - Bà tôi có một món tóc, không gì hơn. Tôi tìm thấy nó vào một ngày khi bà đang ngủ. Tôi không bao giờ hỏi…a ha! – Không biết bằng cách nào, giám đốc Rossini tìm ra và bấm nút mở của ngăn bí mật. Ông mỉm cười đắc thắng vì một phần tư đáy hộp rơi xuống mặt bàn, tiếp theo là một cái thẻ nhỏ, vuông vắn.
Lật chiếc hộp, cả hai chúng tôi cùng kiểm tra kỹ lưỡng ngăn bí mật, nhưng nó chẳng chứa gì ngoài tấm thẻ.
- Ông có hiểu những thứ này không? – Tôi chỉ cho giám đốc Rossini những chữ cái và con số trên tấm thẻ, được đánh bằng một máy chữ cổ lỗ. – Trông giống như mật mã vậy.
- Cái này là thứ cũ, - ông nói và cầm tấm thẻ từ tay tôi, - cô gọi nó là gì nhỉ? Một phiếu thư mục. Chúng tôi dùng những phiếu này trước khi có máy tính. Nó có từ trước thời của cô. Chà! Thế giới đã đổi thay biết chừng nào! Tôi nhớ khi…
- Ông có biết nó từ đâu ra không?
- Cái này ư? Có lẽ là từ một thư viện chăng? Tôi không biết. tôi không phải là chuyên gia. Nhưng…..- ông liếc nhìn tôi, ước lượng liệu tôi có xứng đáng với sự cởi mở này không, - tôi biết một người hiểu nó.
Mất một khoảng thời gian, tôi mới tìm ra hiệu sách cũ mà giám đốc Rossini tả, và khi đến nơi, lẽ tất nhiên là nó đã đóng cửa nghỉ trưa. Tôi cố nhìn qua các ô cửa kính xem có ai bên trong không, nhưng chẳng thấy gì ngoài sách, sách và sách.
Rẽ ở góc chếch sang quảng trường Duomo, tôi ngồi xuống bậc trước giáo đường Siena cho qua thời gian. Mặc dù du khách chen chúc vào, ra qua các cửa nhà thờ, toàn bộ khung cảnh này vẫn có một vẻ rất thanh bình, vững chãi và bất diệt, khiến tôi cảm thấy nếu không bận bịu, tôi có thể ngồi đó mãi, giống như tòa nhà này, để ngắm nhìn với niềm hòa cổ và lòng trắc ẩn về sự hiện hữu bất diệt của loài người.
Điểm nổi bật nhất của giáo đường là tháp chuông. Nó không cao như tháp Mangia, bông huệ tây cao vút ở Campo của giám đốc Rossini, nhưng khác thường hơn vì những sọc như ngựa vằn. Nhờ những lớp đá mỏng đen trắng xen nhau lên tận đỉnh, nhìn nó giống chiếc cầu thang bằng gốm nung lên tận Thiên đường, và tôi không khỏi ngẩn ngơ vì ý nghĩa tượng trưng của tòa tháp. Có khi chẳng có gì. Có khi mục đích của nó chỉ là để gây ấn tượng. Hoặc có khi chỉ là biểu trưng của một trong các gia huy ở Siena, Balzana – vệt trắng, vệt đen, giống như một cái ly không chân rót đầy một nửa thứ vang màu đỏ sẫm nhất – làm tôi càng thấy khó hiểu hơn.
Giám đốc Rossini đã kể cho tôi nghe chuyện hai anh em sinh đôi người La Mã cưỡi con ngựa vằn đen – trắng chạy trốn ông bác tàn ác, nhưng tôi không tin truyện kể này nhấn mạnh màu sắc của Balzana. Nó phải là một thứ tương phản. Một nghệ thuật đầy gai góc, kết hợp các thái cực và những thỏa hiệp bắt buộc, hoặc có khi thể hiện nhận thức cuộc đời là sự cân bằng tinh tế của các sức mạnh vĩ đại, và nếu trên đời này không còn cái ác phải diệt trừ thì sẽ tốt đẹp biết bao.
Nhưng tôi không phải là một triết gia, và mặt trời cho tôi biết đã đến giờ mà chỉ những con chó dại và người điên mới phơi mình dưới nắng. Vòng trở lại góc phố, thấy hiệu sách vẫn đóng cửa, tôi thở dài và xem đồng hồ, tự hỏi nên trú ở chỗ nào cho đến khi người bạn thời thơ ấu của mẹ giám đốc Rossini ăn trưa trở về.
Bên trong giáo đường Siena đầy ắp vẻ giàu có và bóng tối. Mọi phía quanh tôi là những cây cột đen và trắng, đồ sộ chống đỡ một bầu trời mênh mông rải rác những vì sao, sàn nhà là một bức khảm khổng lồ, ghép hình các biểu tượng và huyền thoại mà tôi biết chút ít nhưng không hiểu, giống người chỉ nghe thấy âm thanh của một thứ ngôn ngữ xa lạ.
Nơi này khác hẳn những ngôi nhà thờ hiện đại trong thời thơ ấu của tôi, dù niềm tin tôn giáo khác nhau, song tôi vẫn cảm thấy trái tim mình đáp lại bằng một nhận biết bí ẩn, dường như trước kia tôi đã ở đó, mong ngóng Chúa Trời từ rất, rất lâu rồi. Tôi chợt nhớ ra mình mới đến đây lần đầu tiên, nhưng nơi này rất giống với tòa lâu đài đầy những bóng ma trong giấc mơ của tôi. Vừa ngẩn ngơ ngắm mái vòm dát những vì sao, yên lặng giữa một rừng những cây cột mày trắng bạc, tôi vừa nghĩ có người đã đưa tôi vào chính tòa giáo đường này khi tôi còn bé tí, và vì thế tôi đã cất giữ trong trí nhớ mà không biết nó là gì.
Một lần duy nhất tôi ở trong một nhà thờ có diện tích tương tự như thế này, là khi Umberto đưa tôi đến nhà thờ National Shrine ở Washington, trốn học sau cuộc hẹn với nha sĩ. Hồi đó tôi không quá sáu, bảy tuổi, nhưng tôi nhớ rất rõ ông quỳ cạnh tôi ở giữa sàn nhà mênh mông và hỏi:
- Cô có nghe thấy gì không?
- Nghe tháy gì ạ? – Tôi hỏi, tay nắm chặt cái túi nhựa nhỏ đựng bàn chải răng mới màu hồng
Ông ngửa đầu khôi hài:
- Các thiên thần. Nếu cô trật tự hơn, cô sẽ nghe thấy họ cười khúc khích.
- Họ cười gì ạ - Tôi tò mò. – Cười chúng ta ư?
- Họ tiếp nhận những lời răn dạy đang bay ở đây. Không có gió, chỉ có hơi thở của Chúa thôi.
- Hơi thở của Chúa làm họ bay được à?
- Có một mẹo để bay. Các thiên thần kể với tôi thế. – Ông mỉm cười vì tôi mở to mắt, kinh sợ. – Cô phải quên mọi thứ cô biết khi là một con người. Khi là người, cô phát hiện ra có một sức mạnh vĩ đại trên trái đất đáng căm ghét này. Và nó có thể làm cô gần như bay được. Nhưng không bao giờ được đâu.
Tôi nhăn mặt, không hiểu ý ông.
- Thế, mẹo đó là gì ạ
- Yêu thương bầu trời.
Lúc tôi đứng đó, đang đắm chìm trong hồi ức về lời thổ lộ tràn đầy cảm xúc, hiếm hoi của Umberto, một nhóm du khách người Anh tiến đến phía sau tôi, hướng dẫn viên sôi nổi nói đến những thất bại trong việc cố gắng tìm hiểu và khai quật hầm mộ cổ - được cho rằng tồn tại từ thời Trung cổ nhưng nay đã mất vĩnh viễn.
Tôi lắng nghe một lát, thích thú cái kiểu kể chuyện giật gân của người hướng dẫn rồi để giáo đường lại cho các du khách, tôi rảo bước xuống đường Capitano và rốt cuộc, rất ngạc nhiên khi lại trở lại quảng trường Postierla, đối diện với quán cà phê hơi của Malena.
Quảng trường nhỏ này những lần trước tôi có mặt đều tấp nập, nhưng hôm nay yên tĩnh dễ chịu, có lẽ vì đang giờ ngủ trưa và trời nóng như nung. Một cái bệ có con sói cái đang cho hai sói con bú đối diện với đài phun nước nhỏ, có con chim bằng kim loại trông hung dữ lượn bên trên. Hai đứa trẻ, một trai một gái đang té nước vào nhau và chạy tới chạy lui, cười ré lên trong lúc một dãy người già ngồi trong bóng râm cách đấy không xa, đội mũ, áo khoác đã cởi, nhìn sự vui sống của lũ trẻ bằng con mắt hiền hòa.
- Chào nhé! – Malena nói khi nhìn thấy tôi bước vào quán. – Luigi làm việc được đấy chứ?
- Anh ấy là một thiên tài. – Tôi tiến tới chỗ cô, nhoài người trên quầy mát lạnh, cảm thấy tự nhiên lạ thường. – Tôi sẽ chẳng bao giờ rời Siena miễn là anh ấy còn ở đây.
Cô cười vang, tiếng cười ấm áp, ranh mãnh, khiến một lần nữa tôi lại băn khoăn về những bí ẩn trong cuộc sống của những người phụ nữ nơi này. Dù nó là gì đi nữa, tôi cũng bỏ lỡ mất rồi. Nó hơn sự tự tin rất nhiều, hình như nó là khả năng yêu thương nồng nhiệt và không khoan nhượng về cả thể xác lẫn tinh thần, kéo theo giả thuyết rất tự nhiên rằng mỗi con người trên hành tinh đang hấp hối này đều phải bắt tay vào hành động.
- Đây, - Malena đặt tách cà phê hơi xuống trước mặt tôi và nháy mắt, thêm một chiếc bánh quy có vị hồi, - ăn thêm vào. Nó sẽ đem lại cho cô…cô biết không, chí khí.
- Một loại vật trông hung dữ, nhỉ? Tôi nói, ám chỉ đài phun nước ngoài kia. – Nó là loài chim gì thế?
- Chim đại bàng của chúng tôi, tiếng Ý là Aquila. Đài phun nước là …ờ, là gì nhỉ? – Cô cắn môi, tìm từ. – Fonte battesimale….bình nước thánh cho lễ rửa tội, phải không nhỉ? Đúng rồi! Đây là nơi chúng tôi mang trẻ sơ sinh tới, để chúng trở thành aquiline, những con đại bàng nhỏ.
- Đây là lãnh địa Đại bàng sao? – Tôi liếc nhìn những người khách khác, bỗng thấy mình ngô nghê. – Có thực biểu tượng đại bàng xuất phát từ gia tộc Marescotti không?
- Phải, - Malena nói và gật đầu. – Nhưng đương nhiên chúng tôi không sáng tác ra nó. Đại bàng vốn có nguồn gốc từ người La Mã, sau đó Carlomagno kế tục, và từ khi gia tộc Marescotti có quân đội riêng, chúng tôi có quyền sử dụng biểu tượng uy quyền này. Nhưng không ai biết gì hơn.
Tôi chăm chú nhìn cô, gần như tin chắc rằng cô nhắc tới gia tộc Marescotti như thể cô là người nhà họ.
Nhưng tôi vừa mở miệng định hỏi, bộ mặt tươi hơn hớn của cậu hầu bàn len vào giữa chúng tôi.
- Chỉ những người đủ may mắn mới được làm việc ở đây. Chúng tôi biết mọi thứ về con chim cao quý của cô ấy.
- Phớt cậu ta đi, - Malena nói, giả vờ giơ cái khay đánh vào đầu anh ta. – Cậu ấy thuộc lãnh địa Torre – Tháp, cô hiểu không? – Malena nhăn mặt. – Lúc nào cũng pha trò.
Đúng lúc đó, trong niềm vui chung, có một thứ thoáng qua mắt tôi. Một người cưỡi xe máy màu đen, kính che kín mặt, dừng lại giấy lát nhìn qua cửa kính rồi rồ ga phóng mất.
- Ducati Monster S4, - cậu hầu bàn đọc thuộc lòng như nhớ lại quảng cáo trên báo, - một hung thần đường phố thực sự. Động cơ làm mát bằng dung dịch. Nó làm đàn ông mơ đến chém giết, tỉnh dậy toát mồ hôi và cố vồ lấy nó. Nhưng nó không có tay vịn. Vì thế, - cậu ta vỗ vào bụng, gợi ý, - đừng mời một cô gái lên xe nếu bạn không có hệ thống phanh thích hợp.
- Đủ rồi, đủ rồi đấy, Dario! –Malena mắng. – Cậu ăn nói nhố nhăng vừa chứ!
- Cô có biết người đó là ai không? – Tôi hỏi, cố ra vẻ thản nhiên trong lúc cảm thấy rất bứt rứt.
- Cái gã ấy à? – Malena đảo mắt, không chú ý lắm. – Cô có biết người ta nói rằng…những kẻ làm ầm ĩ như thể đang bỏ lỡ cái gì đó ở đằng kia kìa.
- Tôi không làm ầm ĩ! – Dario phản đối.
- Tôi không nói cậu, ngốc ạ! Tôi đang nói đến con muỗi mắt cưỡi xe kia kìa.
- Cô biết hắn là ai không? – Tôi hỏi lại
Cô nhún vai:
- Tôi thích đàn ông lái ô tô. Bọn phóng xe máy…chúng là những tay chơi. Đặt một cô bạn lên xe máy thì được, nhưng con cái cô, phù dâu của cô hay mẹ chồng cô thì sao?
- Ý kiến chính xác của tôi thì, - Dario nói, nhếch lông mày, - Tôi đang dành dụm để mua một cái. Đến lúc này, vài người khách khác trong hàng đằng sau tôi tỏ rõ vẻ sốt ruột, dù Malena có vẻ rất thoải mái phớt lờ hộ vì cô muốn thế, nhưng tôi quyết định hoãn những câu hỏi về gia tộc Marescotti và hậu duệ hiện nay của họ đến lúc khác.
Khi rời quán, tôi nhìn quanh tìm chiếc xe máy, nhưng chẳng thấy tăm hơi. Lẽ tất nhiên tôi không thể biết chắc, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng, đây chính là gã đã bắt nạt tôi đêm trước, và nói thật, nếu hắn thực sự là một kẻ ăn chơi đang tìm gái để ghì vào cái ấy của hắn, tôi có thể nghĩ ra nhiều cách tốt hơn để bắt đầu chuyện đó.
Cuối cùng, khi chủ nhân của hiệu sách đi ăn trưa về, tôi đang ngồi ở bậc thềm trước nhà bà, dựa vào cánh cửa, và đang định bỏ cuộc. Nhưng sự kiên nhẫn của tôi được đền bù xứng đáng vì người đàn bà ấy, - một bà già dịu dàng, vóc người mảnh khảnh – vừa nhìn cái phiếu thư mục đã gật đầu ngay lập tức.
- À, phải rồi, - bà ta nói tiếng Anh trôi chảy, không hề tỏ ra ngạc nhiên, - đây là tài liệu lưu trữ của trường đại học. Bộ sưu tập lịch sử. Tôi cho là người ta vẫn dùng bảng mục lục cũ. Để tôi xem nào, phải rồi, phiếu này ở mục Cuối thời Trung cổ. Cái này có nghĩa là địa phương. Cô nhìn đây, - bà chỉ vào mã thẻ - K là chữ cái của giá sách, còn 3-17b là số ngăn. Nhưng nó không nói rõ có cái gì trong đó. Dù sao, mã số có nghĩa như vậy đấy. –Giải quyết sự bí ẩn rất nhanh, bà ngước nhìn tôi, tưởng còn câu hỏi khác. – Sao cô lại có tấm thẻ này?
- Mẹ tôi…đúng hơn là cha tôi, là giáo sư của trường đại học. Bà biết giáo sư Tolomei không ạ?
Bà lão rạng ngời lên như một cây Giáng sinh.
- Tôi nhớ chứ! Tôi là sinh viên của ông ấy mà! Cô biết không, cha cô là một trong những người sắp xếp tất cả bộ sưu tập này. Nó rất lộn xộn. Tôi mất hai vụ hè để dán số lên các ngăn, Nhưng,…tôi không biết vì sao cô lấy thẻ này ra. Ông thường khó chịu mỗi khi người ta để các phiếu thư mục vương vãi.
Trường đại học Siena nằm rải rác khắp thành phố, nhưng nơi lưu trữ lịch sử của trường không xa hiệu sách là mấy, đi về hướng cổng thành tên là Porta Tufi. Mất một lúc tôi mới tìm đúng tòa nhà giữa bao mặt tiền kín đáo dọc con đường; cuối đường là một nơi dành cho giáo dục như miếng vá trên các tấm áp phích về chủ nghĩa xã hội ở hàng rào bên ngoài.
Hy vọng trà trộn được vào đám sinh viên, tôi qua cửa mà bà bán sách đã tả và nhằm thẳng tới tầng hầm.
Có lẽ vì vẫn đang giờ nghỉ trưa – hoặc có khi trong mùa hè chẳng mấy người lai vãng, tôi xuống cầu thang mà không gặp ai; toàn bộ nơi này mát mẻ và yên tĩnh đến mê người. Đây là việc gần như quá dễ dàng.
Chẳng có gì ngoài tấm phiếu thư mục, tôi đi qua nơi lưu trữ vài lần, cố tìm ra đúng giá sách nhưng vô hiệu. Đây là bộ sưu tập riêng biệt, bà bán sách đã giải thích, và ngay cả hồi đó, người ta cũng ít dùng đến nó. Tôi phải tìm phần biệt lập nhất, nhưng lời chỉ dẫn này rất phức tạp vì trên thực tế, mỗi phần ở nơi lưu trữ dường như đều lạnh nhạt với tôi. Ngoài ra, các giá sách tôi nhìn vào đều không có ngăn, chúng chỉ là các giá thông thường xếp đầy sách, không phải là đồ tạo tác. Và cũng chẳng có cuốn sách nào mang nhãn K 3-17b.
Sau khi đi bộ ít nhất khoảng hai mươi phút, cuối cùng tôi thử lại gần một cánh cửa xa nhất ở cuối phòng. Đó là một cánh cửa bằng kim loại được niêm phong kín, gần giống như cửa vào tầng hầm của nhà băng, nhưng tôi có thể mở ra dễ dàng, bên trong một căn phòng khác nhỏ hơn, khí hậu được điều chỉnh phần nào khiến không khí có mùi rất khác, giống một mảnh sô cô la bị bỏ xó. Cuối cùng, phiếu thư mục của tôi mới được việc. Các giá này đầy những ngăn, đúng theo cách bà bán sách miêu tả. Bộ sưu tập sắp xếp theo niên đại, bắt đầu từ thời Etruscan và chấm dứt – tôi đoán thế - vào năm cha tôi mất. Rõ ràng là chưa có người nào sử dụng nó, vì một lớp bụi dày phủ kín khắp nơi, và cái thang gấp cứ ì ra khi tôi cố kéo vì các bánh xe gỉ cứ dính vào sàn nhà. Cuối cùng, khi chịu chuyển động, nó vẫn rít lên phản đối, để lại đằng sau những vết hằn nho nhỏ màu nâu tren lớp vải sơn phủ sàn màu tím.
Tôi đặt thang cạnh giá có nhãn K và trèo lên, nhìn kỹ hơn vào hàng số 3, có khoảng hai chục ngăn cỡ vừa, tất cả đều ngoài tầm với và tầm nhìn, trừ khi ta có thang và biết chính xác cái gì cần tìm. Ban đầu có vẻ như ngăn 17b bị khóa, và sau khi gõ vài lần bằng nắm tay, nó dần lỏng hơn khiến tôi có thể kéo ra được. Rất có thể, chưa có người nào từng mở ngăn kéo này kể từ khi cha tôi đóng nó lại từ nhiều thập kỷ trước
Bên trong, tôi tìm thấy một gói to bọc bằng chất dẻo màu nâu kín hơi, kín gió. Chọc nhẹ vào, tôi cảm thấy đó là một thứ thuộc loại vải thấm nước, gần giống như túi bọt ở cửa hàng bán vải. Hoang mang, tôi rút cái gói ra khỏi ngăn, trèo xuống thang và ngồi ở bậc dưới cùng, kiểm tra các thứ vừa tìm được.
Thay vì xé toạc ra, tôi lại chọc một móng tay vào lớp chất dẻo và khoét một lỗ nhỏ. Không khí bị niêm kín xì ra, cái túi như thở dài và một góc vải màu xanh lơ bợt màu thò ra. Khoét cho cái lỗ to hơn một chút, tôi cảm nhận thớ vải bằng các ngón tay. Tuy không thạo lắm, nhưng tôi ngờ nó là lụa và rất, rất cũ dù trong điều kiện bảo quản cẩn thận.
Hiểu rõ mình đang phơi một thứ mỏng manh ra ngoài không khí và ánh sáng cùng một lúc, tôi gỡ tấm vải khỏi lớp chất dẻo và bắt đầu mở ra trên lòng. Rồi một vật rơi ra và đập xuống sàn nhà trải vải sơn, tiếng kim loại kêu lanh lảnh.
Đó là một con dao to trong bao bằng vàng, được gói kỹ trong nhiều lớp lụa. Lúc nhặt nó lên, tôi nhận ra hình một con đại bàng khảm trên cán.
Ngồi đó, nhấc vật báu bất ngờ trong tay xem nặng nhẹ, tôi bỗng nghe thấy một tiếng động ở góc đằng sau kho lưu trữ. Nhận thức được rằng mình đã xâm phạm quá dễ dàng vào nơi chắc chắn còn giữ nhiều thứ quý giá không thể thay thế, tôi đứng dậy, thở hổn hển, cảm thấy có lỗi và gói lại thứ vừa đoạt được nhanh hết mức có thể. Điều cuối cùng tôi mong muốn là không bị phát hiện trong tầng hầm khác thường, khí hậu được điều hòa với những thứ mới tìm ra trong tay.
Cố im lặng hết sức, tôi lẻn trở lại thư viện chính, kéo cánh cửa kim loại gần như đóng chặt sau lưng. Lom khom sau hàng giá sách cuối cùng, tôi chăm chú lắng nghe. Âm thanh duy nhất tôi nghe thấy là hơi thở không đều của mình. Mọi việc tôi làm là trèo lên các bậc cầu thang và rời khỏi tòa nhà, bình thản như lúc bước vào.
Tôi đã nhầm. Vừa quyết định làm thế chưa được bao lâu, tôi nghe thấy tiếng bước chân. Không phải bước chân của người thủ thư trở lại sau giờ nghỉ trưa, cũng không phải một sinh viên tìm sách, mà là tiếng chân đáng ngại của người nào đấy không muốn tôi nghe thấy hắn đang đến, kẻ lang thang trong nơi lưu trữ này còn thiếu minh bạch hơn cả tôi. Ngó qua các giá sách, tôi thấy hắn đi theo đường của tôi – vâng, đó chính là tên cặn bã đã theo dõi tôi đêm trước - đang trượt từ giá sách này đến giá sách khác, mắt hắn nhìn xoáy vào cánh cửa kim loại dẫn xuống tầng hầm. Nhưng lần này, hắn cầm một khẩu súng.
Chỉ còn vài giây là hắn sẽ đến nơi tôi đang nấp. Suýt nôn vì sợ hãi, tôi luồn theo giá sách cho đến khi tới đầu kia. Ở đây có một lối đi hẹp men tường dẫn tới bàn thủ thư, tôi cố hết sức rón rén rồi gập đôi người lại, nép sát vào đầu hẹp của một giá sách, hy vọng thoát khỏi tầm nhìn khi kẻ côn đồ đi qua trong lối đi ở đầu kia.
Lúc đứng đó, quá sợ đến mức không thở nổi, tôi phải chống chọi với sự thôi thúc phải chạy bán sống bán chết. tự buộc mình ở lại, tuyệt đối im lặng, cố đợi thêm vài giây rồi mới dám vươn ra nhìn, và tôi thấy hắn lặng lẽ lẻn vào tầng hầm.
Tuột giày ra bằng những ngón tay run rẩy, tôi vội vã chạy dọc lối đi hẹp, rẽ ngoặt cạnh bàn thủ thư và tiếp tục chạy lên cầu thang, ba bậc một, không dám dừng lại ngoảnh nhìn phía sau.
Cho đến lúc đã cách xa trường đại học và an toàn trong một phố nhỏ mờ tối, tôi mới dám chạy chậm dần, và cảm thấy phần nào nhẹ nhõm. Nhưng cảm giác ấy không kéo dài lâu. Rất có thể, đây chính là kẻ đã biến phòng tôi thành một đống rác, và thứ duy nhất hắn thấy là tôi không ngủ trên giường khi hắn tới.
Peppo Tolomei gần như sửng sốt khi hìn thấy tôi, vì tôi trở lại Bảo tàng Cú sớm hơn ông tưởng.
- Giulietta! – Ông kêu lên, đặt hiện vật và giẻ lau chùi xuống. – Có chuyện gì thế? Cái gì thế này?
Cả hai cùng nhìn cái gói hỗn độn trong tay tôi.
- Em không biết, - tôi thú nhận. – Nhưng em nghĩ nó là của cha em.
- Để đây, - ông dọn sạch một khoảng trên bàn, và rất nhẹ nhàng đặt mảnh lụa xanh xuống, để lộ con dao găm náu bên trong.
- Anh có biết cai này ở đâu ra không? – Tôi nói và cầm con dao lên.
Nhưng Peppo không nhìn vào con dao. Ông bắt đầu mở mảnh lụa bằng đôi tay cung kính. Khi nó đã được trải rộng ra toàn bộ, ông lùi lại như bị thôi miên và làm dấu.
- Cô tìm thấy cái này ở đâu vậy? – Ông nói, giọng ông không hơn gì tiếng thì thầm.
- Ùm…cái này trong bộ sưu tập của cha em ở trường đại học. Nó bọc con dao. Em không biết nó là một thứ đặc biệt.
Peppo nhìn tôi, sửng sốt:
- Cô không biết đây là gì ư?
Tôi nhìn mảnh lụa xanh kỹ hơn. Chiều dài của nó lớn hơn bề rộng rất nhiều, gần giống một biểu ngữ, bên trên in hình một phụ nữ với vầng hào quang quanh mái tóc và đôi bàn tay giơ lên ban phúc. Thời gian làm phai màu sắc, nhưng vẻ say mê của bà vẫn còn nguyên. Ngay một người tầm thường như tôi cũng biết đó là bức vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria.
- Đây là lá cờ thánh sao?
Peppo vừa nói vừa vuốt cho phẳng:
- Đây là mảnh lụa, giải thưởng lớn của Palio. Nhưng nó rất cổ. Cô có nhìn thấy các chữ số La Mã ở góc không? Đó là năm. – Ông cúi xuống đẻ xác minh con số lần nữa. – Đúng! Đức Mẹ ơi! – Ông quay sang tôi, mắt ngời sáng. – Đây không chỉ là mảnh lụa cổ, mà còn là mảnh lụa huyền thoại nhất! Ai cũng tưởng nó biến mất vĩnh viễn. Nhưng nó đây! Đây là giải thưởng ở Palio năm 1340. Một kho báu vĩ đại! Nó được lót bằng những cái đuôi nhỏ xíu của…tôi không biết tiếng Anh gọi là gì. Nhìn này, - ông chỉ vào mép lụa tả tơi, - ở đây và đây nữa. Không chỉ là những con sóc bình thường, mà là những con sóc đặc biệt. Nhưng ngày nay chúng không còn nữa.
- Thế, thứ này có đáng giá không ạ? Về mặt tiền nong ấy?
- Tiền ư? – Quan niệm ấy xa lạ với Peppo, ông nhìn tôi cứ như thể tôi đề nghị giao việc cho chúa Jesus theo giờ. – Nhưng đây là giải thường! Nó rất đặc biệt….là một vinh dự lớn lao. Từ thời Trung cổ, người thắng cuộc ở Palio nhận được một lá cờ lụa tuyệt đẹp, lót lông thú đắt tiền; người La Mã gọi nói là pallium, chính vì thế các cuộc đua của chúng tôi gọi là Pali. Nhìn này, - ông chỉ cây gậy vào một số lá cờ treo trên tường, - mỗi lần lãnh địa của chúng tôi thắng ở Palio, chúng tôi đều được một giải thường mới cho bộ sưu tập. Chúng tôi có những lá cờ cổ nhất, tới hai trăm năm tuổi.
- Thế ra các vị không có giải thưởng khác từ thế kỷ XIV sao?
- Ồ không! Peppo sôi nổi lắc đầu. – Đây là thứ rất rất đặc biệt. Cô thấy đấy, thời xa xưa, người thắng ở Palio nhận giải thưởng và quấn lên người để mừng chiến thắng. Chính vì thế tất cả đều thất lạc.
- Vậy nó phải đáng giá cái gì đó chứ, - tôi khăng khăng. – Ý em là nó quý hiếm đến thế kia mà.
- Tiền, tiền, tiền, - ông chế nhạo. –Tiền không phải là tất cả. Cô không hiểu sao? Đây là lịch sử của Siena!
Sự nhiệt tình của ông anh họ tương phản gay gắt với tâm trạng của tôi. Sáng nay, dường như tôi liều cả mạng sống vì một con dao cổ han gỉ và một lá cờ bạc màu. Phải, đây là một giải thưởng, và có giá trị như thế, gần như là một đồ tạo tác đầy ma thuật với dân Siena, nhưng, trừ phi tôi nhầm, nếu tôi nhặt được ở ngoài trường thành Siena, nó chỉ là một mảnh giẻ cũ rich vô giá trị.
- Còn con dao thì sao? –Tôi hỏi. – Trước kia anh đã từng nhìn thấy chưa?
Peppo quay bàn và cầm con dao lên.
- Cái này, - ông nói và rút dao ra khỏi vỏ rồi xem xét dưới ngọn chúc đài, - là một con dao găm. Một vũ khí rất có ích.
Ông kiểm tra hình chạm rất kỹ, gật gù một mình vì toàn bộ thứ này bắt đầu có nghĩa.
- Một con đại bàng. Tất nhiên rồi. Nó được cất giấu cùng với giải thưởng từ năm 1340. Tưởng như tôi nên sống để nhìn thấy thứ này. Tại sao ông ấy không bao giờ cho tôi xem nhỉ? Tôi cho rằng ông biết tôi sẽ nói gì. Những báu vật này thuộc về toàn thể thành phố Siena, chứ không chỉ của gia tộc Tolomei.
- Anh Peppo, - tôi nói và lau trán, - em biết làm gì với thứ này?
Ông nhìn tôi, cái nhìn của ông xa vời lạ lùng, dường như một phần ông là hiện tại, còn một phần ở năm 1340.
- Cô có nhớ tôi đã kể cha mẹ cô tin rằng Romeo và Juliet sống ở đây, ở Siena không? Năm 1340 có một Palio gây nên nhiều tranh cãi. Người nói giải thưởng biến mất – giải thưởng đây này – và một kỵ sĩ đã chết trong cuộc đua. Nghe nói Romeo đấu trong Palio ấy, và tôi nghĩ đấy chính là con dao găm của chàng.
Lúc này, sự tò mò của tôi đã át nỗi thất vọng.
- Chàng thắng chứ?
- Tôi không chắc. Có người nói chàng là người chết. Nhưng hãy nhớ lấy lời tôi, - Peppo nhìn tôi, mắt nheo lại, - nhà Marescotti sẽ làm mọi việc để được đặt tay lên cái này.
- Ý anh là, nhà Marescotti hiện đang sống ở Siena ư?
Peppo nhún vai:
- Dù cô tin mảnh lụa này là gì đi nữa, thì con dao găm chính xác là của Romeo. Nhìn hình chạm con đại bàng trên cán dao xem? Cô có hình dung được một báu vật như thế này lại thuộc về họ không?
- Em cho rằng có thể trả nó…
- Không! – Lúc này, niềm hân hoan ngây ngất trong mắt anh họ tôi nhường chỗ cho nhiều cảm xúc mà chẳng còn mê mẩn là mấy. – Cô phải để nó lại đây! Đây là một báu vật và bây giờ thuộc về toàn thành phố Siena, không chỉ của lãnh địa Đại bàng hoặc nhà Marescotti. Cô mang nó đến đây là rất hay.Chúng tôi phải thảo luận việc này với toàn thể các quan chức địa phương của các lãnh địa. Họ rất hiểu biết. Trong thời gian này, tôi sẽ để báu vật này vào két an toàn tránh xa ánh sáng và không khí. – Ông bắt đầu sốt sắng gập mảnh lụa lại. – Tôi hứa với cô, tôi sẽ trông nom nó hết sức cẩn thận. Két an toàn của chúng tôi rất chi là an toàn.
- Nhưng cha mẹ em để nó lại cho em…- tôi liều phản đối.
- Phải, phải, phải, nhưng đây không phải là thứ nên thuộc về bất cứ người nào. Cô đừng lo, các quan chức sẽ biết làm gì.
- Thế còn..
Peppo nghiêm khắc nhìn tôi.
- Tôi là cha đỡ đầu của cô. Cô không tin tôi sao?
Con thấy thế nào? Liệu con có ưng chàng quý tộc này không?
Tối nay con sẽ thấy chàng ở buổi dạ tiệc nhà ta
--- --------oOo---- -------
Siena, 1340 Công nguyên
Với danh họa Ambrogio, đêm trước lễ Đức Mẹ lên Trời thiêng liêng chẳng khác gì đêm trước lễ Giáng sinh. Suốt lễ vọng ban đêm, cả giáo đường Siena vốn tối tăm nay được thắp sáng huy hoàng với những cây nến lễ khổng lồ - một số cây nặng hơn hai mươi kilo – khi một đoàn diễu hành dài từ các lãnh địa đổ về gian giữa của giáo đường, tiến thẳng tới bàn thờ bằng vàng để tôn vinh Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, nữ thần bảo hộ Siena và kỳ niệm ngày bà lên Trời.
Ngày mai chính thức là lễ Đức Mẹ lên Trời, tòa giáo đường uy nghi sẽ được chiếu sáng bằng một rừng đuốc bập bùng khi chư hầu từ các thị trấn và làng mạc xung quanh mang đồ cống nạp tới. Hàng năm vào ngày này, ngày Mười lăm tháng Tám, luật pháp sau khi tính toán cẩn thận sẽ buộc họ cống một số lượng nến sáp ong nhất định để dâng lên nữ thần thiêng liêng của Siena, các quan chức nghiêm khắc của thành phố sẽ có mặt trong giáo đường để bảo đảm rằng mỗi thị trấn và làng mạc trực thuộc nộp đủ số nến quy định. Giáo đường được chiếu sáng bằng muôn vàn ngọn lửa thiêng chỉ thêm khẳng định một điều với những người xa lạ rằng; Siena là một nơi vẻ vang, được một nữ thần đầy quyền uy bảo trợ, và được là người tùy tùng của Người cũng vô cùng đáng giá.
Danh họa Ambrogio thích buổi lễ vọng ban đêm hơn cuộc diễu hành ban ngày. Có một cái gì đó thần diệu diễn ra khi quần chúng mang ánh sáng vào bóng tối, sự xúc động lan vào mọi ngóc ngách tâm hồn họ và nếu nhìn kỹ, có thể thấy cả điều kỳ diệu trong mắt họ.
Nhưng tối nay, ông không thể tham gia đoàn diễu hành như thường lệ. Từ khi ông vẽ các bức bích họa lớn trong cung Pubblico, giới quan chức địa phương đối xử với ông như người cùng hội cùng thuyền – chắc chắn vì họ muốn ông vẽ họ thật đẹp và tôn vinh họ - và thế là ông phải ở đây, trên bậc đài vọng với chín quan chức Biccherna, phụ trách chiến tranh, phụ trách dân chúng. Niềm an ủi duy nhất là địa vị cao cho phép ông nhìn toàn cảnh ban đêm; các nhạc công mặc đồng phục đỏ tươi, các tay trống và những người liệng cờ đeo gia huy, các thầy tu khoác áo choàng óng ả, cuộc diễu hành trong ánh nến cứ tiếp diễn cho đến khi mọi lãnh địa tỏ lòng tôn kính nữ thần đã dang rộng tà áo che chở cho tất cả.
Chắc chắn gia tộc Tolomei dẫn đầu đoàn diễu hành từ lãnh địa San Cristoforo. Gia huy của họ màu đỏ và vàng, ngài Tolomei và phu nhân bước vào gian giữa của giáo đường và tiến thẳng tới ban thờ chính, hành xử hệt như bậc vương giả tiến đến ngai vàng. Một nhóm các thành viên trong gia đình đi ngay sau họ, và chẳng mấy chốc danh họa Ambrogio phát hiện ra Giulietta trong số đó. Dù mái tóc nàng phủ tấm lụa xanh lơ – màu xanh trong trắng và uy nghi của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria – và dẫu mặt nàng chỉ được chiếu sáng bằng một cây nến sáp nhỏ trong đôi bàn tay ngoan đạo chắp lại, vẻ kiều diễm của nàng vẫn dễ dàng làm lu mờ mọi thứ xung quanh, kể cả những của cải đẹp đẽ của các anh chị họ nàng.
Nhưng Giulietta không để ý đến những cái nhìn ngưỡng mộ hướng theo nàng suốt dọc đường đến bàn thờ. Nàng chỉ nghĩ đến Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, trong lúc mọi người quanh nàng tiến thẳng tới ban thờ cao với vẻ mãn nguyện của người dâng lễ, mắt cô gái chú mục xuống sàn cho đến lúc quỳ cùng các anh chị họ và trao cây nến của mình cho các thầy tế.
Lúc đứng dậy, nàng khẽ nhún gối chào hai lần và quay mặt về phía mọi người. Chỉ đến lúc này, hình như mới chú ý đến vẻ huy hoàng xung quanh, nàng có vẻ hơi xao xuyến dưới mái vòm mênh mông, chăm chú nhìn mọi vật và mọi người với vẻ tò mò, lo lắng. Danh họa Ambrogio không mong gì hơn được ào tới, dâng nàng sự giúp đỡ khiêm nhường của ông, nhưng lễ nghi phép tắ đòi hỏi ông phải ở nguyên tại chỗ, và chỉ được phép thưởng thức vẻ đẹp của nàng từ xa.
Ông không phải là người duy nhất chú ý đến nàng. Các quan chức đang bận rộn đàm phán và bắt tay cũng im bặt khi nhìn thấy gương mặt rạng rỡ của Giulietta. Bên dưới đài vọng, ngay cả ngài Salimbeni trang trọng cũng phải quay nhìn thứ làm tất cả lặng ngắt.. Lúc ngắm cô gái, một vẻ hài lòng, thích thú lan trên mặt ông ta, và đúng lúc ấy, Salimbeni nhớ tới bậc thầy vẽ bức bích họa đã làm ông chú ý, - khi ông còn trẻ và ngốc nghếch – trong một ngôi nhà có tiếng là xấu xa. Cách vẽ miêu tả thần Dionysus đang giáng trần xuống hòn đảo Naxos, tìm công chúa Ariadne bị người tình Theseus phản bội và bỏ rơi ở đó.
Truyền thuyết về cuộc gặp gỡ giữa nàng và vị thần rất mơ hồ một số người thích nghĩ họ hòa thuận, đằm thắm bay đi với nhau còn những người khác hiểu rằng cuộc gặp gỡ giữa con người và các vị thần đa tình có bao giờ kết thúc hạnh phúc đâu.
So Salimbeni với một vị thần có lẽ là sự so sánh quá tử tế, làm rạng danh cho ông ta. Nhưng hồi đó, các vị thần ngoại giáo cổ xưa không hề nhân từ và thân thiện. Dẫu Dionyss là thần rượu và được tán dương, ngài cũng sẵn sàng biến mình thành vị thần của sự điên rồ, một sức mạnh kinh khủng của tự nhiên có thể cám dỗ đàn bà chạy lao vào rừng và xé thịt thú bằng tay không.
Lúc này, Salimbeni đứng đó ngắm Giulietta đi qua nền giáo đường, cái nhìn xấc láo của ông ta tỏ ra nhân từ và dạt dào, nhưng nhà danh họa có thể thấy dưới bộ áo lộng lẫy của người đàn ông, sự biến dạng đang diễn ra.
Nhà danh họa nghe thấy một trong chín vị quan chức lẩm bẩm.
- Này, Tolomei lạ thật đấy. Ông ta nhốt kín cô nàng ở chỗ nào suốt thời gian này thế nhỉ?
- Đừng đùa, - Niccolio Patrizi, vị quan chức già nhất nói. –tôi nghe nói cô ấy bị bọn Salimbeni làm cho mồ côi. Chúng tấn công nhà cô gái trong lúc cô ấy đi xưng tội. Tô biết rõ cha cô ta. Ông ấy là một người đàn ông hiếm có. Chưa bao giờ tôi lung lạc được sự liêm chính của ông ấy.
Người khác khịt mũi:
- Ngài có chắc là cô nàng kia không? Đời nào Salimbeni để một viên ngọc như thế tuột khỏi kẽ tay?
- Tôi biết chắc cô ấy được một giáo sĩ cứu mạng. Tôi đã trả lời cho cả hai. – Niccolino Patrizi thở dài và nhấp một ngụm vang trong cái ly bằng bạc. – Tôi chỉ mong chuyện này không bùng lên mối thù truyền kiếp lần nữa, hiện giờ chúng ta phải kìm nó lại,
Ngài Tolomei nghĩ đến những tuần lễ qua mà sợ. Ngài thừa biết trong buổi lễ vọng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria lên trời, ngài sẽ phải đối mặt với kẻ thù, những tên Salimbeni đáng ghê tởm nhất, và lòng tự trọng đòi hỏi ngài phải trả thù cho cái chết của gia đình Giulietta. Sau khi cúi chào trước bàn thờ, ngài tiến thẳng tới chỗ đài vọng, tìm Salimbeni trong số các nhà quý tộc đang tập hợp ở bên dưới.
- Chào ông bạn thân mến! – Salimbeni dang rộng hai tay, cử chỉ rất thân ái khi nhìn thấy kẻ thù cũ đang đến gần. – Tôi hy vọng gia đình ông vẫn mạnh khỏe chứ?
- Hầu như thế, - Tolomei đáp, hàm ông nghiến chặt. – Tôi chắc ông có nghe đồn gần đây có người mải mê bạo lực?
- Tôi có nghe, - Salimbeni nói, cử chỉ thân thiện biến thành cái nhún vai tùy tiện, - nhưng tôi chẳng bao giờ tin lời đồn đại.
- Còn tôi sẽ may mắn hơn, - Tolomei đáp lại, cả vóc người lẫn thái độ đều cao vút lên và không thể kiềm chế nổi, - vì tôi phải tận mắt chứng kiến người sẵn sàng đặt cả hai bàn tay lên Kinh Thánh mà thề -Thực ư? – Salimbeni ngoảnh đi như thể đã chán đề tài này. – Tòa án nào lại xuẩn ngốc đến mức nghe những lời thề ấy?
Tiếp theo câu hỏi là sự im lặng đầy ẩn ý. Tolomei và mọi người xung quanh đều biết ông đang bị một thế lực có khả năng nghiền nát và hủy hoại mọi thứ ông có – tính mạng, tự do và tài sản, - vấn đề chỉ là thời khắc. Các vị quan chức sẽ chẳng làm gì để bảo vệ Tolomei. Trong các két riêng của họ có quá nhiều vàng nhà Salimbeni, và sẽ còn đến nhiều hơn nữa vì không ai trong số họ mong kẻ bạo ngược kia sụp đổ. – Ông bạn thân mến ơi, - Salimbeni nói tiếp, nụ cười tự mãn, nhân từ trở lại, - tôi hy vọng ông không để những sự việc xa xưa ấy phá hỏng buổi tối của ông. Ông nên lấy làm mừng vì những ngày giao chiến giữa chúng ta đã chấm dứt, chúng ta có thể bước vào một tương lai thái bình và thấu hiểu nhau.
- Ông gọi cái này là thái bình và thấu hiểu ư?
- Có lẽ chúng ta có thể cân nhắc..- Salimbeni nhìn qua căn phòng về phía cô gái, và tất cả mọi người có mặt. – trừ Tolomei – đều nhìn thấy thứ ông ta đang nhắm tới, - việc đánh dấu hòa bình của chúng ta bằng một cuộc hôn nhân chăng?
- Tất nhiên! – Trước kia Tolomei đã đưa ra đề xuất này vài lần, nhưng lúc nào cũng bị từ chối. Ông hình dung nếu hòa trộn dòng máu của Salimbeni với Tolomei chắc chắn hai dòng họ sẽ bớt phải đổ máu hơn. Nóng lòng muốn rèn khi sắt đang nóng, ông sốt ruột gọi vợ ở đầu kia căn phòng. Phải vẫy mấy lần, phu nhân Antonia mới tin những người đàn ông muốn bà có mặt, bà lo lắng, khép nép đến chỗ Salimbeni như một nô lệ trước mặt vị chủ nhân dễ thay đổi tính khí
-Ngài Salimbeni thân mến của tôi đề nghị hai gia đình chúng ta kết thân. – Tolomei giải thích với bà. – Phu nhân nghĩ sao? Đây chẳng phải là việc tuyệt vời sao?
Phu nhân Antonia vặn đôi tay, vẻ háo hức nịnh bợ. -Vâng, đúng thế ạ. Một việc tuyệt vời.
Bà suýt nhún gối cúi chào Salimbeni trước khi nói chuyện trực tiếp với ông ta.
- Vì ngài có lòng nói đến chuyện cầu hôn, chúng tôi có một đứa con gái vừa tròn mười ba, tuy nó không hoàn toàn phù hợp với anh Nino rất điển trai của ngài. Con bé ít nói nhưng mạnh khỏe. Nó ở đằng kia, - phu nhân Antonia chỉ qua sàn, - cạnh Tebaldo, trưởng nam của tôi đấy ạ. Nếu ngài không ưng con bé, nó còn cô em gái hiện giờ mười một tuổi.
- Cảm ơn lời mời hào phóng của bà, phu nhân thân mến ạ, - Salimbeni nói, cúi đầu rất lịch thiệp, - nhưng tôi không nghĩ đến con trai tôi. Tôi đang nghĩ cho chính tôi kia.
Cả Tolomei lẫn phu nhân Antonia đều ngớ người, kinh ngạc không thốt nên lời. Mọi người xung quanh cũng không thể tin nổi, song họ vội kìm lại, chỉ bật lên những tiếng xì xào bồn chồn, ngay cả trên đài vọng, tất cả đều theo dõi sự việc tiến triển bên dưới với vẻ lo ngại căng thẳng.
- Cô gái kia là ai vậy? – Salimbeni nói tiếp, rõ ràng không hay biết đến chấn động bên dưới. Ông ta hất đầu về phía Giulietta. – Trước kia, cô ta đã có chồng chưa?
Cơn giận cũ của Tolomei trở lại trong giọng nói của ông:
- Đấy là cháu gái tôi. Nó còn lại một thân một mình sau những sự kiện bi thảm mà tôi vừa nhắc tới. Tôi tin rằng nó sống chỉ để tìm cách báo thù những kẻ đã tàn sát gia đình nó.
- Tôi hiểu. – Trông Salimbeni không hề nao núng. Trái lại, hình như ông ta còn cảm thấy thích thú với thách thức đó. – Cô ta là người có chí khí nhỉ?
Phu nhân Antonia không thể nín lặng lâu hơn, bà sốt sắng dấn tới.
- Rất mạnh mẽ, thưa ngài. Một cô gái rất khó ưa đấy ạ. Tôi tin rằng ngài nên chọn một trong các con gái của tôi thì hơn. Chúng sẽ không phản đối.
Salimbeni mỉm cười, hầu như nói với chính mình. - Như vậy, tôi thích được phản đối hơn.
Dù ở xa, Giulietta cũng cảm thấy nhiều ánh mắt đang đổ dồn vào nàng, và nàng không biết trốn đi đâu để tránh sự soi mói. Hai bác nàng đã bỏ cả họ hàng để hòa vào đám quý tộc, và nàng có thể thấy họ đang trò chuyện với một người toát lên sự phong lưu và cao thượng của một hoàng đế, nhưng lại có cái nhìn tham lam và them khát của thú dữ. Điều đáng lo là cái nhìn của người ấy cứ chốc chốc lại xoáy vào nàng.
Tìm chỗ náu đằng sau một cây cột, nàng hít vài hơi thật sâu và thầm nhủ mọi việc thế là ổn. Sáng hôm nay, tu sĩ Lorenzo đã đưa cho nàng bức thư của Romeo nói rằng cha chàng, sĩ quan chỉ huy Marescotti sẽ gặp ông bác Tolomei của nàng để cầu hôn càng sớm cùng tốt. Từ lúc nhận được bức thư đó, nàng chỉchăm chăm cầu xin Chúa Trời để cuộc cầu hôn được chấp thuận và tình trạng lệ thuộc của nàng vào gia đình Tolomei sẽ trở thành quá khứ.
Ngó nhìn từ sau cây cột, Giulietta có thể nhận ra chàng Romeo tuấn tú của nàng trong đám các nhà quý tộc, trừ phi nàng nhầm, chàng đang vươn người và nhìn quanh tìm nàng, và hình như mỗi lúc càng thêm bực tức vì không thấy nàng ở đâu. Đứng cạnh chàng là một người đàn ông chỉ có thể là phụ thân của chàng. Nàng cảm thấy niềm vui dâng tràn khi nhìn thấy họ, biết rằng cả hai quyết thỉnh cầu nàng trở thành người nhà họ. Khi nhìn thấy họ tiến tới chỗ ông bác Tolomei, nàng đã cố dằn lòng. Kín đáo tiến đến gần hơn, từ cây cột này sang cây cột khác, nàng cố lại gần để nghe được câu chuyện của những người đàn ông mà không bị họ phát hiện. May cho nàng, họ đang mải mê với chủ đề hấp dẫn nên chẳng chú ý gì.
- Chào chỉ huy! – Bác Tolomei của nàng kêu to khi nhìn thấy cha con Marescotti tiến tới. – Hãy cho chúng tôi biết kẻ thù có đang ở các cổng không đây?
- Kẻ thù đã ở ngay đây, - sĩ quan chỉ huy Marescotti đáp, và lịch sự gật đầu với người đàn ông có cặp mắt ác thú đang đứng cạnh bác nàng, – Tên nó là tham nhũng, và nó không chịu dừng lại ngoài cổng. – Ông ngừng giấy lát, để mọi người cười phá lên. – Thưa ngài Tolomei, có một việc tế nhị mà tôi muốn bàn bạc với ngài. Việc riêng thôi. Khi nào tôi có thể đến thăm ngài?
Tolomei nhìn sĩ quan Marescotti, tỏ rõ sự khó hiểu. Nhà Marescotti có thể không giàu có như nhà Tolomei, nhưng ngọn đuốc lịch sử chiếu sáng tên tuổi họ, và cây phả hệ của gia tộc Marescotti chắc đã phát triển về phía Charlemagne từ năm thế kỷ trước, nếu không phải ở chính Eden. Chắc Giulietta sẽ rất vui nếu bác Tolomei của nàng bước vào công cuộc làm ăn với một người mang tên tuổi tầm cỡ ấy. Thé là ông quay lưng lại người đàn ông có cái nhìn của thú dữ và dang rộng đôi tay:
- Xin hã
Tác giả :
Anne Fortier