Lam Y Nữ Hiệp
Chương 32: Nhờ hiệp khách phận hàn, Tề quân tặng báu kiếm Vào hành thích dâm vương, Tam hiệp trổ tài cao
Người ấy vận bào lục đã bạc màu, giắt hai vạt lên đai lưng cho khỏi vướng, quần đen chịt ống, chân dận hài thêu, lưng đeo học hành lý, và thanh trường kiếm giải đỏ tươi như máu. Tóc búi ngược nét mặt tuy còn trẻ, nhưng bộ râu ba chùm đen lánh dài quá ngực, khiến người khách bộ hành ấy già thêm đến mười tuổi nữa. Khuôn mặt dài, xương xương, mũi cao và thẳng, mi thanh mục tú long lanh tựa sao băng. Thoạt nhìn ai cũng biết khách bộ hành đó từ phương xa tới dù chẳng có bọc hành lý trên lưng.
Trong Tam Môn cốc chỉ có hai trang trại nuôi gia súc, trừ những người lui tới giao dịch buôn bán quen thuộc với hai Trại chủ, ngoài ra không có một ai xa lạ qua lại khu vực này cả. Bởi vậy, khi mới thấy người thọt chân bước thấp bước cao, trên đường khô khan đầy sỏi đá, hai cha con họ Địch và Lâm Diêm Bá lấy làm lạ lùng, không ai bảo ai mà cũng nhìn nhau thăm dò ý kiến.
Họ chắc chắn cũng không phải khách của bên Hàn gia trại nữa, vì không có ai lại dại đi bộ vào Tam Môn cốc, để điều đình mua hay bán gia súc với họ Hàn, Địch. Những người ấy không đi ngựa thì dùng xe.
Đang tập tễnh chống gậy đi giữa đường, chợt nghe thấy tiếng vó ngựa ở phía sau, người thọt chân vội tránh bên ven đường, ngừng bước chống gậy chăm chú nhìn.
Đoàn người ngựa cũng nhìn lại nhận xét. Chờ ngựa đi qua hắn ít bước, Địch Lân mời dừng ngựa hỏi :
- Tiên sinh từ phương xa tới, tìm kiếm ai trong khu này?
Người kia đưa mắt nhìn Địch Lân qua Lâm Diêm Bá rồi tới Phượng Tiên và Tú Kiều, như kẻ không nghe thấy câu hỏi của họ Địch.
Địch Lân cũng mặc xem người đó định làm gì.
Giây lâu, nhìn hầu như đã chán mắt, người lạ mới cất giọng ấm áp :
- Dạ, tôi từ Bắc Hà tới. Phải chăng người là Trại Mạnh Thường.
Nói đoạn người ấy lại đăm đăm nhìn họ Địch không chớp mắt.
Địch Lân cười ha hả :
- Lão phu biết ngay là khách lạ lầm đường mà!... Không, tôi không phải Trại Mạnh Thường, nhưng có quen với người ấy. Tiên sinh cần điều chi, tôi xin giúp.
Người thọt chân bèn khoanh tay vái chào bộ tịch rất đường hoàng :
- Đa tạ lão tiên sinh có lòng giúp, tôi chỉ cần biết đường vào Âu Dương trang thôi.
Địch Lân xuống ngựa đáp lễ :
- Đây là con đường khi chính Đông vào Tam Môn cốc có bản trại, và một trại nữa nuôi gia súc. Còn đường vào khu đại trang của Trại Mạnh Thường thì ở lối Đông Bắc. Giờ đây hãy còn sớm, đường không xa mấy, chúng tôi sẵn ngựa xe nếu tiên sinh không nề hà, tôi sẽ chờ người tới tận nơi.
Người thọt chân tươi nét mặt :
- Như vậy phiền lão tiên sinh đi lại mất cả ngày giờ?
- Không, chỉ xa hơn chút đỉnh thôi. Lối đó đi vòng cũng tới bổn trại. Tiên sinh muốn dùng ngựa hay ngồi xe.
Nhìn qua hai thiếu nữ trên xe, người ấy đáp :
- Lão tiên sinh cho tôi ngồi ngựa được không.
- Tiên sinh tự cầm cương lấy!
- Dạ, thế cũng được.
- Nào, xin mời.
Người đó tấp tểnh đi đến bên con ngựa.
Địch Lân nhận thấy y bị thọt nhiều bèn đổi ý :
- Hay là mời tiên sinh lên xe, tôi cầm cương. Hai tiện nữ đây cũng biết kỵ mã.
Nghe vậy, Phượng Tiên và Tú Kiều cùng xuống xe nhường chỗ.
Địch Lân toan đỡ người lạ lên xe, nhưng y đã nói :
- Khỏi phiền lão tiên sinh, tôi lên được.
Nói đoạn, y chống tay vào thành xe nhảy một chân lên xe khá lẹ làng rồi dựng cây gậy sang một bên.
Địch Lân chờ Phượng Tiên và Tú Kiều lên ngồi chung ngựa của mình, rồi mới lên xe cầm roi quất bốp một tiếng, thúc ngựa quay trở ra đầu đường, rẽ lên hướng Đông bắc.
Chị em Phượng Tiên và Lâm Diêm Bá theo sau.
Trong khi đi đường, Địch Lân hỏi khách lạ :
- Tiên sinh đi ngựa hay xe từ Hà Bắc xuống Tô Châu?
- Dạ, tôi đi xe theo các đoàn khách thương.
- Đường đi có bình an không?
- Có mấy nơi nguy hiểm, nhưng nhờ tiêu sư kinh nghiệm nên đi thoát.
Địch Lân nhìn người nọ :
- Nếu tiên sinh thuê xe vào Âu Dương trang đã không đến nỗi lầm đường.
- Người ta chỉ lối cho tôi đi và bảo là gần nên tôi mới đi chân.
- Chao ôi! Gần thì cũng bảy, tám dặm đường.
- Tôi may mắn nên được gặp lão tiên sinh giúp cho phương tiện tới nơi. Chắc người cũng thân giao với lão anh hùng Trại Mạnh Thường.
- Có chớ! Nhưng chẳng nói gì tôi, cả thị trấn Tô Châu này và hơn nữa, toàn cõi Giang Nam ai ai cũng nghe danh Trại Mạnh Thường. Trong trang lúc nào cũng có vài trăm miệng thực khách từ khắp bốn phương trời qua đó đủ các hạng người giang hồ hảo hán, quái khách dị nhân chẳng thiếu một ai.
Hai người thủng thẳng chuyện trò, không mấy chốc đã tới Âu Dương trang.
Khách lạ xuống xe từ biệt Địch Lân rồi đứng sang bên đường chờ đoàn người ngựa đi khỏi mới chống gậy chập chững tiến tới cổng trang.
Tráng đinh thấy người thọt chân, lưng đeo trường kiếm thì tò mò nhìn. Khách lạ cũng nhìn quanh hồi lâu mới từ từ đi vào. Tráng đinh trình cuốn sổ ghi danh.
Người nọ lật mấy trang sổ đọc qua rồi cầm bút ghi "Lư Cầu Kiều Tề Quân Bảo", nét chữ rắn rỏi lạ thường.
Ghi danh xong, Tề Quân Bảo bảo :
- Tôi muốn gặp Chu gia song hiệp, hiện có mặt tại đây chớ.
Tráng đinh đáp :
- Xin quý khách theo tôi nhập trang, chừng nào gặp Trang chủ sẽ biết rõ.
Họ Tề điềm đạm :
- Làm ơn vào báo trước, tôi tự kỷ vào sau.
Thấy thái độ dị kỳ của tân khách, tráng đinh lấy làm lạ nhìn kỹ rồi bảo một tráng đinh khác :
- Vào đại sảnh báo với Trang chủ đi.
Chờ tên tráng đinh đó đi khỏi hồi lâu, Tề Quân Bảo mới đủng đỉnh chống gậy đi vào.
Lúc đó Trại Mạnh Thường đang ngồi ở hậu đường, đàm luận cùng Chu gia và ba con thì tráng đinh vào báo :
- Thưa Trang chủ, có khách lạ họ Tề ở Lưu Cầu Kiều muốn gặp Chu thiếu gia và Nữ hiệp.
Trại Mạnh Thường cau mày hỏi :
- Sao các ngươi không theo thường lệ mời vào ngay.
- Thưa, Tề tân khách nhất định nhờ vào báo trước.
- Người đó thế nào?
- Thưa tân khách mi thanh mục tú, đeo trường kiếm nhưng... thọt chân.
Lão anh hùng nhìn anh em Chu gia có ý hỏi. Lam Y và Chu Đức Kiệt nhìn nhau, lắc đầu tỏ ý không quen ai họ Tề ở Lưu Cầu Kiều mà thọt chân cả.
Âu Dương Tòng Cát nói :
- Thì cứ ra xem là ai đã, rồi sẽ hay.
Sáu người cùng đẩy kỷ đứng dậy, ra đại sảnh, bước xuống thềm nhìn họ Tề đang lững thững đi vào. Cách nhau độ mươi bước, Tề Quân Bảo ngừng lại dương cặp mắt sáng như sao mai, nhìn từ người nọ đến người kia hồi lâu mới lên tiếng :
- Vị nào là Chu gia song hiệp.
Từ này, sáu người lấy làm lạ, về thái độ kỳ dị của tân khách, nhưng cũng mặc xem họ Tề hành động thế nào.
Thấy hỏi đến tên mình, anh em Chu gia thận trọng tiến lên hai bước cùng đáp :
- Chúng tôi đây.
Tề Quân Bảo lại trừng trừng nhìn hồi lâu rồi bỗng quái tài tay hữu rút phắt thanh trường kiếm co chân hữu bị thọt lên, toàn thân dồn cả vào chân tả, giơ kiếm ngang mặt rồi lại đăm đăm nhìn, sắc diện tái đi lạnh như tiền.
Thanh kiếm bị rút soạt ra khỏi vỏ, long lanh sáng ngời tia ra muôn vạn hào quang dưới ánh Thái Dương le lói, khi kiếm lạnh ngắt như giá băng.
Không ai bảo ai, sáu người cùng lùi lại mấy bước tưởng vị kiếm gia nào có thù tới gây sự đây!
Nhưng không! Tề Quân Bảo vẫn đứng y nguyên độc cước như con hạc đậu trên mỏm đá vậy. Bỗng họ Tề cười ha hả, ghê rợn, lao thanh trường kiếm cắm phập xuống đất cách nơi Chu gia song hiệp vài bước, giãi kiếm đỏ lừ phe phẩy trước gió thu man mát.
Buông chân chưa thọt xuống, Tề Quân Bảo đưa tay hữu chỉ kiếm hất hàm hỏi anh em Chu gia như thách thức :
- Xin mời coi kiếm gì đây.
Không do dự, Lam Y nữ hiệp nhìn quanh một vòng, lúc đó mọi người trông thấy lạ đều kéo tới đứng xem đông đảo, bước tới rút cây trường kiếm lên, lật đi lật lại nhận xét, đoàn nàng tiến thêm mấy bước nữa đảo kiếm hoa lên mấy đường linh diệu toàn thân uyển chuyển tựa giao long, lưỡi kiếm rít lên từng hồi bao phủ quanh mình nàng lạnh lẽo như sương lam một buổi chiều tà sơn cước.
Tề Quân Bảo tươi hẳn nét mặt, mê man nhìn vị cân quắc giai nhân thử kiếm.
Nữ hiệp ngừng tay thâu kiếm giữa những tiếng hoan hô vang dậy, xem lại một lần nữa, nhìn thẳng vào mặt Tề, buông xõng :
- Trảm Lư hùng kiếm.
Nghe vậy, Tề Quân Bảo tháo dây đeo kiếm quỳ xuống tam bối, hai tay nâng lên ngay trán :
- Từ nay, báu kiếm này đã có chủ, Tề mỗ xin người nhận lấy và cho phép tôi thưa một điều...
Lam Y đỡ Tề Quân Bảo dậy, nhưng y lắc đầu :
- Xin người nhận kiếm linh này đã! Tôi từ Bắc xuống Nam chỉ có một việc đó.
Lam Y đỡ lấy bao tra kiếm vào vỏ. Tề Quân Bảo liền đứng lên, Lam Y chỉ họ Âu Dương giới thiệu từng người một.
Họ Tề nghiêm chỉnh thi lễ và nói với Trại Mạnh Thường :
- Tự nhiên tới quý trang khinh động, mong lão anh hùng đại xá.
Trại Mạnh Thường vui vẻ khoác tay Quân Bảo dìu lên đại sảnh :
- Khách quý đến nhà là nguyện vọng của lão phu, xin mời vào nhà đã, sẽ nói chuyện sau.
Bảy người cùng vào đại sảnh, phân ngôi chủ khách, gia nhân dâng trà.
Lam Y nữ hiệp đặt thanh trường kiếm lên giữa án, chỉ hai chữ "Trảm Lư" bằng vàng dát trên vỏ kiếm đồng Hoài Ngọc sạm màu khói, và chữ Hùng cũng bằng vàng ở chuôi kiếm cho mọi người xem.
Trại Mạnh Thường nhấc kiếm lên ra khỏi vỏ tấm tắc khen ngợi và chuyền tay cho ba anh em Tòng Cát xem.
Âu Dương Bích Nữ xem kiếm sau chót, khen ngợi luôn miệng mãi mới đặt kiếm xuống mặt án.
Lam Y nhìn nàng tủm tỉm cười, ngụ ý gì mà cô gái Thiếu Lâm tự chưa hiểu.
Chu Đức Kiệt nhìn Tề Quân Bảo :
- Sao tiên sinh biết anh em tôi ở Âu Dương trang mà xuống tận đất Giang Nam này tìm.
Tề Quân Bảo chậm rãi :
- Đại danh nhị vị ở Hoa Bắc, ai ai cũng biết, nên tôi mạo muội vào Bình Dương huyện xin yết kiến để cậy nhờ một việc tối ư quan trọng cho đời tôi.
- Tiên sinh biết sanh quán chúng tôi ở Bình Dương huyện.
Họ tề gật đầu :
- Dạ, nhờ sự ngẫu nhiên. Nhị vị có quen biết một người nào tên là Lôi Vân Long không? (muốn biết Lôi Vân Long là nhân vật nào, bạn đọc thân mến hãy coi lại Giang Hồ Kỳ Văn từ số đầu).
Chu Đức Kiệt nhìn Lam Y rồi đáp :
- Có, Tề tiên sinh cũng biết người đó.
- Tôi đã nói là do một sự ngẫu nhiên. Nguyên do cách đây độ hai năm, một buổi chiều mùa hạ, mưa gió tầm tã, có hai người khách lạ, vào khu trại nhỏ của tôi xin trú mưa.
- Bản trại ở đầu phía Bắc Lư Cầu kiều chắc nhị vị thừa biết khu đó?
Đức Kiệt gật đầu :
- Chúng tôi đã qua lại nơi ấy mấy lần. Khu Bắc phần nhiều là trang trại, chớ không tấp nập như nơi trung tâm.
- Dạ, chính thế. Bởi vậy hai người khách lạ cố đi tới đó có lẽ bị thương mưa nặng hột quá nên rẽ vào tệ gia trú mưa.
Người trẻ tuổi trạc ngoại tam tuần dong dỏng cao, quắc thước, khỏe mạnh. Còn người kia là đạo sĩ trạc năm mươi, năm mươi sáu tuổi, béo mập, diện mạo không được hiền từ.
Theo cách xưng hô thì hai người đó là sư đệ. Người học trò Lôi Vân Long, đạo sĩ tên gì không rõ, nhưng vận bào bát quái...
Lam Y nữ hiệp nhìn mọi người giải thích :
- Đó là Bát Quái đạo sĩ, sư phụ của Lôi Vân Long... Thế rồi sao nữa hả Tề tiên sinh.
Tề Quân Bảo nói tiếp :
- Lúc đó trời đã tối, mưa vẫn nặng hột, tôi khoản đãi hai người. Trong khi chuyện trò, họ có nhắc tới nhị vị và tỏ thái độ không được quân tử, bởi vậy sau khi họ mời về tư phòng, tôi cố ý rình nghe xem hai người ấy nói những gì nữa...
Lôi Vân Long nói :
- Hai anh em Lam Y nổi danh hành hiệp mà bao nhiêu lâu nay đệ tử tìm kiếm cũng không hề gặp thế mới lạ kỳ.
Đạo sĩ suy nghĩ hồi lâu :
- Hay là chúng ta về cả Bình Dương huyện.
- Không đệ tử mới về Sơn Đông mà không gặp.
Hôm sau hai người từ tạ ra đi.
Tề Quân Bảo nhắp hụm trà, nói tiếp :
- Riêng phần tôi, từ ngày được nghe danh nhị vị cũng muốn được diện kiến, để yêu cầu một việc, nhưng nhị vị như cặp nhạn phương trời, lần nữa mãi, mấy tháng trước đây, tôi sang Bình Dương huyện hỏi thăm tới quý trang thì Vương quản gia cho hay là nhị vị đã xuống Giang Nam từ hồi đầu năm.
Thăm dò mãi có người khuyên nên đến trang trại Âu Dương lão anh hùng là nơi có nhiều giang hồ hảo hán qua lại, may ra biết tin tức gì chăng, và quả nhiên tôi đã gặp cái may hãn hữu ngay hôm nay.
Lam Y hỏi :
- Thế còn thanh trường kiếm này.
Nhìn thanh kiếm báu, Tề Quân Bảo khẽ gật đầu :
- Dạ, tôi xin nói tiếp. Cây Trảm Lư này của nội tổ tôi là Tề Kim Báo, xưa kia theo Mã Định Quốc. Nguyên soái bình thiên hạ đoạt được của tướng Kim. Truyền đời đời gia phụ, Tề Minh Châu bỏ học võ cần công chẳng hành, danh chẳng đạt, làm một chức quan nhỏ dưới quyền Tỉnh Vương Chu Trường Đức. Chẳng ngờ đệ tam Thế tử của Tĩnh Vương là Chu Vĩnh An tánh tình dâm dật, thấy gia mẫu nhan sắc nên tìm cách hãm hại gia phụ những mong đoạt vợ người. Lúc đó tôi còn nhỏ tuổi, gia mẫu bèn giao phó tôi và cây báu kiếm cho người cửu phụ lánh về Lư Cầu kiều, trối trăng lại phải báo thù và tuẫn tiết theo gia phụ. Nhưng không may cho tôi, năm mười ba tuổi, lâm bệnh suốt một năm trời, khi khỏi thì chân hữu bị thọt không sao lành được nữa. Kẻ thù vẫn ngang nhiên sống trên nhung lụa bổ nhiệm Tổng đốc Hàng Châu, riêng tôi, tấm thân tàn phế biết hành động ra sao cho thỏa oan hồn mẹ, cha dưới cửu tuyền? Lần nữa mãi sau đây nghe đại danh nhị vị thiên hành hiệp, tôi ao ước được gặp kính dâng báu kiếm, bái thỉnh khách anh hùng vì họ Tề chúng tôi rửa mối thù huyết hận. Bởi vậy hôm nay, Tề Quân Bảo tôi ngông cuồng dâng kiếm thì quả nhiên danh bất hư truyền, hiệp khách anh hùng nhận ngay ra được báu vật. Chủ cây kiếm ấy, xứng đáng vô cùng.
Nói đoạn, Tề Quân Bảo đứng dậy tấp tểnh đến trước mặt anh em Chu hiệp quỳ lạy khóc rưng rức, khiến ai nấy đều cảm thương, hùng khí nổi lên muốn bắt ngay gian vương tán ác, moi gan xé ruột báo thù thay cho họ Tề.
Chu Đức Kiệt đỡ Quân Bảo :
- Tiên sinh khá an lòng anh em tôi sẽ vì người báo thù. Công tiin sanh lặn lội ngàn dặm tới đây tất không uổng, vậy hà tất ưu phiền.
Lam Y nói :
- Chúng tôi hành hiệp có ba người. Chu huynh đã có Thất Tinh đao, phần tôi có Thái Dương kiếm đều do sư phụ Đức Võ Thượng Nhân trao tặng. Riêng Âu Dương tẩu tẩu Bích Nữ đây còn thiếu gươm linh, vậy hãy nhận luôn cả sứ mạng báo thù giúp Tề Quân.
- Thanh báu kiếm Trảm Lư quả có mối duyên kiếp lạ lùng với Âu Dương, và ngay cả đến mối thù của Tề Quân cũng có một sự liên lạc vô cùng mật thiết.
Mọi người nghe Lam Y nói vậy đều ngạc nhiên nhìn nhau.
Nữ hiệp hướng sang Chu Đức Kiệt :
- Hiền huynh chắc thừa hiểu ngu muội muốn nói gì.
Đức Kiệt gật đầu cất giọng trầm trầm.
Hồi theo gia sư học đạo trên Cửu Huyền sơn ngoài cửa Quan, anh em tôi được đọc cuốn Cổ Kim Bảo Kiếm Tùng Thư do tổ sư Huyền Vân trưởng lão truyền lại.
Vốn chuyên về kiếm thuật, gia sư đã đạt được phương pháp luyện thép được đúc báu kiếm không thua gì những cây danh kiếm ngàn xưa, Lợi Giả Thủy Đoạn Giao Long, Bộ Hoa Tây Tượng Trảm Thiết Nhị Nể. Kết quả của công phu nghiên cứu ấy là thanh Thái Dương trường kiếm của gia muội Tú Anh đang dùng.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc có mười tám thanh kiếm báu, chia làm hai thời kỳ luyện đúc.
Mười cây trước là Long Tuyền, Thái A, Bạch Hồng, Từ Điện, Can Tương, Mạc Gia, Ngư Trường, Cản Khuyết, Trảm Lư Hùng, và Trảm Lư Thư.
Đến Việt Vương Câu Tiễn đem Kiếm gia họ Hoàng tên Giả lên Côn Ngô Sơn dùng bạch ngưu, bạch mã tế thiên, địa, đúc thêm tám bảo kiếm nữa là Đoạn Thủy, Yểm Nhật, Huyền Tiên, Chuyển Phách, Chân Cương, Diệt Hồn, Khước Tà, Kinh Nghê.
Thanh nào cũng sắc bén chém sắt dễ dàng như chém tre, đặt sợi tóc lên lưỡi kiếm thổi đứt, sắc kiếm long lanh như tỏa hào quang, lãnh khí rợn người, không bao giờ vấy máu đáng kể như danh cụ xuất xứ.
Hôm nay, nói riêng Thái Lý Sơn ở giáp giới hai nước Hàn và Sở, có một thuật gia nổi tiếng về môn luyện thép, và đúc kiếm báu họ Âu Dương tên Nghĩa tự là Thạch Bằng, vợ là Lý thị người nước Hàn.
Vợ chồng Âu Dương Nghĩa sanh được hai con trai, đứa lớn đặt tên là Thái, đứa thứ nhì là Tòng. Cả hai đều còn nhỏ tuổi.
Âu Dương Nghĩa chế được phương pháp luyện vàng, bạc và thép thâu tinh hoa Nhật, Nguyệt bốn phương, tám hướng, đúc được Thư kiếm và Hùng kiếm sắc bén vô cùng, chém sắt đá như bùn.
Khi hoa lên, làn Thư kiếm màu trắng xanh và làn Hùng kiếm màu lam lợt. Tuốt ra khỏi bao, để hai lưỡi thư, hùng gần nhau, thì phát ra thứ âm thanh vi vu nhè nhẹ tựa thông reo.
Dãy Thất Sơn chạy dọc biên giới Hàn Sở một khúc dài trên hơn hai chục dặm, nên phân nửa thuộc Hàn, phân nửa thuộc Sở. Chia ra như vậy, thiệt ra dân sơn cước trong dãy Thất Lý sơn sống hoàn toàn độc lập, không có quốc gia nào cả, chẳng theo Hàn và cũng không ngả về Sở.
Hồi đó, Sở Bình Vương là một tay kiếm đại tài, có ý thâu gom thiên hạ, đích thân chinh chiến nên muốn được kiếm báu phòng thân.
Sở Vương bèn cho người đi khắp mọi nơi tìm danh nhân đúc kiếm đem về Sở.
Mật sứ viên là Văn Công đi khắp nước nọ, nước kia trong mấy năm trời tìm thuật đưa về cho Sở Vương, nhưng tuyệt nhiên không kiếm được người nào sở dĩ đúc nổi kiếm báu theo ý muốn của vua Sở.
Văn Công buồn rầu, trở về thì Sở Vương quở trách, mà đi nữa thì thập bát chư hầu đã qua hết rồi, còn biết tìm kiếm danh nhân nơi đâu?
Một hôm lang thang về tới đầu dãy núi Thất Lý sơn, Văn Công do dự không biết nên về hay nên đi nữa, bèn ngồi thần người ra trên phiến đá rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Lúc hoảng hốt tỉnh dậy, Văn Công cảm thấy như đã có người nào vừa qua đây ngó trước ngó sau, thì thấy một mảnh giấy vàng phất phơ trên càng cây thấp sà xuống phía sau phiến đá. Văn Công lấy làm lạ cầm lấy mảnh giấy thấy ghi có hàng chữ: "Trung ương Thất Lý đắc hữu kiếm thuật gia Âu Dương chi mệnh danh", nét chữ mềm mại như rồng bay phượng múa.
Chạy đâu đó nhìn chẳng thấy bóng người, kêu lớn lên mấy tiếng thì chỉ âm vang vách núi đập lại, nhưng Văn Công vẫn lấy làm mừng rỡ cho rằng gặp tiên chỉ bảo giúp mình vào khu trung ương dãy núi Thất Lý sơn, tìm thuật gia họ Âu Dương đem về Sở đúc kiếm.
Quỳ xuống bái tạ tiên nhân đã chỉ điểm giúp mình, Văn Công đeo hành lý thất thểu đi theo dãy núi hỏi thăm.
Quả nhiên có họ Âu Dương thật ở ngay khu trung tâm dãy núi Thất Lý.
Nhìn kỹ địa điểm, Văn Công về thẳng nước Sở ra mắt nhà vua, trình bày tự sự.
Sở Vương mừng lắm hậu thưởng cho Văn Công, và cho cầm đầu một phái đoàn vào núi Thất Lý rước cho kỳ được họ Âu Dương về Sở.
Chuyến này đi đông người lại có ủy nhiệm thơ của Sở Vương, Văn Công không do dự nữa đến thẳng nhà Âu Dương nghĩa.
Khi gần tới nơi, Văn Công bảo bọn tùy tùng :
- Ta có lệnh của Quốc vương đi mời chủ nhân khu nhà kia. Nếu y không chịu đi theo, ta sẽ ra hiệu các ngươi cứ việc xông vào bắt đem đi. Tuy vậy, không được bạo động đánh đập người ta nhé.
Văn Công cho đoàn tùy tùng đứng ở nơi khuất, rồi ung dung bước tới gọi cổng.
Thư đồng chạy ra lễ phép chào khách lạ.
Văn Công hỏi :
- Âu Dương tiên sinh có nhà không?
- Thưa có, người cho biết quý danh để con vào báo.
- Ngươi cứ nói là có người bạn nước Sở?
Thư đồng mở cửa mời khách vào rồi lon ton chạy vào trong nhà.
Đủng đỉnh dạo quanh mấy luống bông trong thửa vương xinh xắn trước mấy căn nhà mái rơm tao nhã, Văn Công nghĩ thầm:
"Công hầu vương bá mà chi, đời sống ẩn dật trong thâm sơn thiệt là an nhàn sung sướng".
Văn Công đang mông lung với cảnh vật nên thơ, thì một người trạc ngót tứ tuần tóc búi ngược, dong dỏng cao, nét mặt thanh tú, râu năm chòm đen lánh, dài xuống quá ngực, vận áo dài lụa xanh, dây lưng đen, từ trong nhà bước ra ngoài hành lang vái chào.
- Tôn ông muốn gặp tôi, phải không.
Văn Công đáp lễ :
- Tôi là Văn Công từ Thọ Xuân (kinh đô nước Sở) tới đây để trao lại hầu tiên sinh một bức văn thơ.
- Xin mời tôn ông vào nhà.
Chia ngôi chủ khách xong, Âu Dương Nghĩa hỏi :
- Kẻ ẩn dật sơn dã này còn có việc chi ở ngoài đời khiến tôn ông phải tốn công tới đây.
Văn Công lấy trong ngực áo ra một bức thư đưa cho Âu Dương Nghĩa :
- Lá thơ này do chính tay Sở Vương tự thảo, tiên sinh đọc sẽ rõ.
Âu Dương Nghĩa nhìn Văn Công dò ý, đỡ lấy bức thơ, bóc vội ra đọc.
"Thư rằng.
Sở Bình Vương gởi Âu Dương ẩn sĩ nhã giám.
Nghe danh hiền sĩ, Trầm muốn thân tới Thất Lý sơn bái thỉnh. Song lẽ công việc triều chính bộn bề không thể rời kinh thành, nên nhờ Văn khanh thay mặt thỉnh cầu hiền sĩ về triều cùng Trẫm thảo luận một việc trọng hệ. Mong hiền sĩ thể tình thu xếp lên đường ngay cùng Văn khanh. Chớ để Trẫm mong chờ.
Nay thỉnh".
Đọc xong, Âu Dương suy nghĩ biết không đi tất chẳng xong, vì không lẽ Văn Công đi có một mình. Lời lẽ trong thư tuy khiêm tốn nhưng ẩn một mệnh lệnh triệu gấp, chối từ sao nổi! Mình thì là một người biết đúc kiếm chớ đâu có tài tế thế an bang đến nỗi Sở Vương phải hạ mình cầu thỉnh.
Chắc mệnh lệnh đây không ngoài việc bắt ta đúc kiếm báu. Nghe nói Sở Vương uy dũng thiệt, nhưng tàn ác vô cùng mà vào tay người ấy thì có khác chi cọp thêm nanh vuốt tất hại nhiều cho thiên hạ. Thôi, việc tới đâu hay tới đó, bề nào cũng phải đi, sẽ tùy cơ ứng biến.
Từ nãy Văn Công vẫn im lìm ngồi chờ.
Âu Dương Nghĩa bèn nói :
- Phiền tôn ông ngồi dùng trà, tôi vào nhà trong thu xếp hành trang.
Văn Công gật đầu mỉm cười :
- Nếu vậy thì hay lắm, xe ngựa chờ cả ngoài kia rồi...
Tức thì Âu Dương Nghĩa vào nhà trong dặn dò vợ con. Rồi vác bọc hành lý cùng Văn Công ra khỏi nhà.
Văn Công vỗ tay mấy cái. Đoàn người ngựa võ trang đầy đủ từ góc núi tiến tới.
Họ Văn mời Âu Dương Nghĩa lên xe rồi ra lệnh trực chỉ kinh thành Thọ Xuân.
Về tới kinh đô, Văn Công lưu Âu Dương Nghĩa ở dinh mình khoản đãi và ngay ngày hôm sau vào triều kiến Sở Vương.
- Muôn tâu bệ hạ, ngu thần đã mời được Âu Dương Nghĩa về đây rồi, hiện y đang ở trong dinh.
Sở Vương cả mừng :
- Công lao của khanh rất lớn. Trẫm sẽ hạ chỉ đặc cách thăng hai trật và hậu thưởng. Nay khanh khá triệu y vào thẳng hậu cung để Trẫm xem mặt gấp.
Văn Công tạ ơn, tức tốc về dinh đưa Âu Dương Nghĩa vào chầu.
Sở Vương thấy Âu Dương Nghĩa tướng mạo tuy khô khan nhưng điềm đạm quắc thước, lấy làm đẹp ý, phán :
- Miễn đại lễ cho Âu Dương khanh, vừa mới đi đường xa mệt nhọc. Đáng lẽ phải để khanh nghỉ ngơi ít bữa, nhưng Trẫm mong gặp hiền sĩ cho thỏa lòng mong chờ, tưởng hiền khanh chẳng nên thế làm buồn.
Nhác thấy Sở Vương uy nghi, hung dữ, Âu Dương Nghĩa vòng tay tâu :
- Ngu thần quen sống nơi sơn dã không biết lễ phép chốn triều trung, cúi mong Bệ hệ thứ cho mọi điều sơ suất.
Sở Vương truyền mời hai người ngồi. Nội thị dâng yến.
Sở Vương mỉm cười hỏi Âu Dương Nghĩa :
- Chẳng hay hiền khanh đã hội được ý trẫm thỉnh về đây có mục đích gì không?
- Muôn tâu, kẻ hạ thần đang phân vân tư vấn mà chưa tìm được câu trả lời.
Vuốt râu đắc ý, Sở Vương cười ha hả :
- Dễ hiểu lắm! Trẫm là người ưa dùng kiếm, nghe danh hiền khanh là một thuật gia có tài đúc nổi báu kiếm, nên muốn nhờ hiền khanh giúp trẫm luyện một cặp Thư, Hùng trước là phòng thân, sau là bình thiên hạ, công ấy của khanh ắt không nhỏ.
- Dạ, ngu thần xin cố sức, song lẽ...
- Sao!
- ... Muôn tâu thì giờ luyện kiếm mất khá lâu và ngu thần phải về Thất Lý sơn mới có thể hoàn thành được.
- Cái đó không ngại. Trẫm chấp nhận điều kiện ấy. Nhưng ước chừng bao lâu?
- Muôn tâu, phải trên một năm mới hoàn thành nổi hai cây Thư, Hùng.
- Trên một năm, chớ nếu ba năm Trẫm cũng kiên tâm chờ đợi. Khanh cần dùng thứ gì, cứ việc bảo Văn Công lấy trong kho. Trẫm đặc cách cho khanh tùy nghi sử dụng.
- Muôn tâu, ngu thần cần hai mươi cân thép cực hảo, mười nén vàng y, năm nén bạc nguyên chất và mười cân đồng bạch hảo hạng.
- Được lắm!
Đưa mắt nhìn Văn Công, Sở Vương nói tiếp :
- Trẫm sẽ truyền lệnh cho viên quan coi kho. Còn việc giúp đỡ Âu Dương khanh. Trẫm hoàn toàn trông cậy ở Văn khanh khá mau lẹ, hồi triều kẻo Trẫm mong chờ.
Nói đoạn, Sở Vương truyền nội thị lấy nghiên bút ngự phê thăng thưởng hai người, cho phép Văn Công nghỉ ba ngày, thu xếp việc nhà rồi sẽ cùng Âu Dương Nghĩa trở về Thất Lý sơn.
Trong ba ngày, hôm nào Sở Vương cũng mời Âu Dương vào cung đãi yến cực kỳ hậu hĩ.
Âu Dương Nghĩa thừa hiểu Sở Vương sợ mình bỏ trốn nên cho Văn Công theo coi chừng. Thế là từ nay tấm thân an nhàn tự tại, bỗng trở thành cá chậu, chim lồng.
Sáng hôm thứ tư, Văn Công điểm quân tải đủ lương thực lên nhiều xe rồi cùng Âu Dương Nghĩa trực chỉ nẻo Thất Lý sơn.
Về tới nơi, Âu Dương Nghĩa bắt tay vào việc đúc kiếm ngay.
Còn Văn Công thì truyền quân đóng trại ở cách Âu Dương chừng vài trăm thước canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt.
Âu Dương Nghĩa đúc hai cây đặt tên là Thư Hùng, Trảm Lư và một cây kiếm thường cách thức ý hệt thanh Hùng kiếm.
Hai chữ Thư Hùng bằng vàng dát ở chuôi kiếm, còn chữ Trảm Lư thì dát ở bao bằng đồng.
Hai năm sau mới hoàn thành, Âu Dương Nghĩa bảo vợ là Lý thị :
- Như hiền thê đã hiểu, việc đúc kiếm cho Sở Vương là ngoài ý muốn của ta. Nay công việc đã hoàn thành lẽ ra chỉ trao kiếm cho Văn Công mang về kinh sư Thọ Xuân cũng được, thì Sở Vương mời ta cùng đi.
- Sở Vương vốn tham tàn, nay được báu kiếm tất y sợ ta đúc kiếm cho người khác, nên nữa thế nào cũng hại ta. Vậy chuyến đi này vị tất đã hòng ngày về, có lẽ vợ chồng ta từ đây vĩnh biệt. Sau bao năm chăn gối, ta có được hai con trai, hiền thê khá trông nom chúng nên người để báo thù sau này, lấy được thủ cấp Sở Vương mới hả giận.
Âu Dương Nghĩa ái ngại thương cảm nhìn Lý thị khóc sướt mướt hồi lâu mới nghẹn ngào nói tiếp.
- Ta để lại nhà cây Hùng kiếm khi ta đi khỏi, hiền thê nên đem con và kiếm về quê ngoại vì ta e Sở Vương hại ta, nhưng sẽ nhổ cỏ nhổ rễ để tránh mối lo hiềm thù. Không thể nào có nổi cây báu kiếm thứ hai nữa, hiền thê khá giữ gìn cẩn thận cho con sau này báo thù. Chuyến đi đây lành ít dữ nhiều. Vậy sau khi ta đi rồi, hiền thê khá nghe lời kíp thi hành những điều căn dặn, dù có chết ta cũng được an tâm là dòng Âu Dương còn có kẻ nối dõi tông đường.
Lý thị khóc sướt mướt không nói lên lời.
Âu Dương Nghĩa gọi hai con âu yếm đặt ngồi lên đùi :
- Các con ở lại khá ngoan ngoãn nghe lời mẫu thân dạy bảo cho người được vui lòng nhé...
Âu Dương Thái năm đó ngót sáu tuổi, liền hỏi cha :
- Phụ thân còn đi đâu nữa, sao không ở nhà với mẫu thân con? Bao giờ về!
- Cha con đi có việc, lâu năm mới về, các con phải chăm chỉ học hành, nghe lời thân mẫu dạy bảo.
- Dạ, con chăm học nhưng sao mẫu thân lại khóc nhiều thế, thưa cha.
Âu Dương Nghĩa lòng đau như cắt, vuốt tóc trẻ thơ ngây :
- Thôi, con còn nhỏ dại chớ hỏi nhiều, lớn lên sẽ biết.
Âu Dương Tòng lên bốn, từ nãy vẫn há miệng nghe, u ơ hỏi cha :
- Phụ thân nhớ mua bánh về cho mẫu thân và chúng con ăn nhé :
- Ờ!... Cha sẽ mua... Thôi hai con ra sân chơi đi.
Âu Dương Nghĩa thần người ra nhìn hai con dắt tay tung tăng chạy vào sau nhà.
Lý thị òa lên khóc, quỳ trước chồng tam bái :
- Từ nay kể như âm dương cách biệt, xin chàng hãy chứng kiến cho lòng thiếp qua mấy lạy này. Vì hai hột máu dòng họ Âu Dương còn thơ ấu, thiếp phải tạm kéo dài chuỗi ngày tàn. Chàng sống khôn thác linh rán chờ thiếp chốn cửu tuyền.
Nàng nức nở gục xuống chân chồng.
Âu Dương Nghĩa đau đớn căm hờn xõa tóc rút Trảm Lư hùng kiếm cắt mớ tóc buộc vào chuôi kiếm gác lên đầu Lý thị rồi lẳng lặng bước ra khỏi phòng lấy hai thanh kiếm xuống thẳng trại quân Văn Công.
- Xong rồi, chúng ta có thể lên đường.
Văn Công mừng rỡ hối quân giở trại tức khắc khởi hành. Ngày đi đêm nghỉ, hơn một tháng sau về tới kinh thành Thọ Xuân.
Được tin Sở Bình vương cho mời hai người vào ngay trong nội sang đãi yến. Âu Dương Nghĩa quỳ dâng hai tay trường kiếm lên Sở Vương :
- Muôn tâu, nhờ đức lớn của Bệ hạ, ngu thần đã hoàn thành được hai cây Thư Hùng, Trảm Lư trường kiếm, dám mong với báu kiếm này. Bệ hạ sẽ bình thiên hạ, an trị muôn dân.
Sở Vương sung sướng nhìn cặp trường kiếm, thận trọng hỏi :
- Chẳng hay trước khi đem dùng, cặp kiếm báu này có tánh cách gì khác thường không?
- Muôn tâu, báu kiếm chém sắt như bùn. Bệ hạ dùng Thư trước thử xem, chừng nào cây Thư được khai kiếm uống máu người rồi sẽ thử tới cây Hùng thì không phải khai kiếm bằng huyết nữa. Lúc đó, Bệ hạ để hai lưỡi kiếm gần nhau tự khắc sẽ có tiếng run nhè nhẹ tựa hồ giọng huyền Thiên Thai... Nếu là kiếm giả tất không có tánh linh đó.
Sở Vương mừng rỡ nhìn chằm chặp vào mặt Âu Dương Nghĩa. Đoạn phá lên cười, tiếng cười lanh lảnh ghê sợ khác thường khiến bọn nội thị hầu tiệc khiếp đởm đưa mắt nhìn nhau. Ngay như Văn Công cũng thấy rùng mình vì trận cười sằng sặc như dao bén, quỷ quái như tiếng má từ âm tự bốc lên. Họ Văn khiếp đảm, cảm thấy việc chỉ hệ trọng kinh khủng sắp xảy ra tới nơi.
Tiệc yến kéo dài tới đầu canh một mới tan.
Sở Vương truyền nội thị đem văn phòng tứ bảo đến phê một đạo chỉ đặc cách phong Âu Dương Nghĩa lên chức Trung Đại phu trưởng ban đúc Ngự khí, rồi vuốt râu tự tay đưa cho Âu Dương mà rằng :
- Văn khanh có công tìm ra người tài đã đặc cách trật rồi nay Trẫm cũng đặc cách phong tước lớn để đền ơn Âu Dương khanh, và kể từ lúc này hiền khanh là người của triều ca Sở quốc.
Âu Dương Nghĩa quỳ lạy đón lấy đạo chỉ cắp vào ngực áo, nhưng Sở Vương phán :
- Khanh khá mở chiếu đọc ngay mới biết mình đã lãnh tước gì chớ.
Âu Dương Nghĩa lãnh đạm mở chiếu ra đọc lớn, rồi lạy tạ về chỗ ngồi.
Sở Vương cười ha hả :
- Âu Dương khanh đã vui lòng chưa?
- Dạ...
Sở Vương nhìn bọn nội thị phán :
- Các ngươi sang võ phòng bày giá võ khí ra chính giữa, đêm nay, Trẫm cao hứng muốn thử xem còn đủ dũng lực đáng làm chủ cặp báu kiếm này không.
Nội thị dạ rân, sang mở cửa phòng, nơi mà Sở Vương thường luyện võ trong cung.
Lát sau nội thị trở vào tâu :
- Tâu Bệ Hạ, võ phòng sẵn sàng rồi ạ.
Sở Vương đứng lên đưa tay mời Văn Công và Âu Dương Nghĩa :
- Nhị vị hiền khanh hãy theo Trẫm và nhận xét xem sức Trẫm thế nào?
Dứt lời, Sở Vương đi trước, Văn Công và Âu Dương Nghĩa theo sau.
Sở Vương cởi long bào cổn vắt lên lưng kỷ.
Văn Công và Âu Dương Nghĩa ngồi ở kỷ hai bên đấu án thơ.
Sở Vương tiến tới bên án cầm lấy thanh Thư kiếm, lạnh lùng hỏi Âu Dương Nghĩa :
- Hồi nãy khanh nói là có thể cây Thư trước phải không?
- Dạ!
Tuốt ra khỏi bao, Sở Vương lật đi lật lại lưỡi kiếm nhận xét rồi đi ra khỏi phòng hoa lên mấy đường, ánh kiếm loang loáng.
Thét lên một tiếng khiến mọi người giật mình, Sở Vương nhằm cây đại phủ cán sắt gài trên giá, chém mạnh :
- Soạt...
Cán đại phủ bị tiện đứt đôi, lưỡi phủ rớt xuống gạch kêu loảng xoảng. Thích chí, Sở Vương vẫn múa kiếm chém luôn một lát nữa tiện đứt đôi ngọn giáo dễ dàng.
Sung sướng, Sở Vương biểu diễn thành bài kiếm lùi dần lại nơi án thư, rồi nhân lúc xuất kỳ bất ý khai kiếm chém rụng đầu Âu Dương Nghĩa lăn lông lốc trên sàn gạch bông. Thây đổ ngả trên kỷ, máu từ cổ phun vọt lên như cầu vồng.
Văn Công giật nảy người, vội vàng chạy ra núp sau chiếc cột lớn, mặt xám ngắt.
Bọn nội thị tưởng Sở Vương say rượu giết càn cũng vội ùa chạy.
Nhưng Sở Vương ngừng tay kiếm nói lớn :
- Văn khanh và các ngươi đừng sợ, Trẫm hạ Âu Dương Nghĩa vì một lý do khác và nhân thể khai kiếm báu.
Nói đoạn, Sở Vương thản nhiên nhìn lưỡi kiếm thấy không dính máu thì khen thầm là bảo vật.
Tra Thư kiếm vào vỏ, Sở Vương rút cây Hùng kiếm, đoạn đi ra chỗ giá binh khí, múa lên vài đường nhưng lấy làm lạ nghĩ thầm :
- Quái, sao lưỡi kiếm này không phát lãnh khí như cây Thư.
Nghĩ vậy, nhà Vua liền nhằm lưỡi thanh đại đao, hao kiếm chém xuống.
Hai thứ kim khí chạm phải nhau chát chúa, tóe lửa nhưng lưỡi đao vẫn y nguyên, Sở Vương ngờ rằng mình chém nhẹ tay quá, bèn tận lực hạ luôn một nhát nữa.
Cũng như lần đầu không có hiệu quả!
Bực mình, nhà vua thâu kiếm lại nhìn thì càng thất vọng luôn.
Lưỡi kiếm nhụt và mẻ mất mấy miếng y hệt như kiếm thường.
Sở Vương suy nghĩ chợt hiểu ra là Âu Dương Nghĩa lừa mình chỉ đưa có một cây Thư kiếm, còn cây Hùng Kiếm là thứ giả, bởi vậy y mới dặn thử Thư kiếm trước, khai kiếm rồi hãy thử cây Hùng.
Sở Vương càng nghĩ càng căm tức. Tại sao Âu Dương Nghĩa lại tráo kiếm.
Dễ hiểu lắm! Vì y đoán biết mình sẽ giết hắn, nên hắn làm ra thất vọng :
- Giờ đây, y chết rồi thì còn ai đúc kiếm khác cho ta nữa.
- À! Không lẽ nào Âu Dương Nghĩa chỉ đúc một cây Thư kiếm. Chắc thanh Hùng kiếm còn lại trong nhà y ở Thất Lý sơn. Ta phải thân chinh đi lấy mới được.
Nghĩ đoạn, Sở Vương liệng thanh kiếm nhụt xuống gần thủ cấp Âu Dương Nghĩa rồi gọi :
- Văn khanh.
Từ này, Văn Công và bọn nội thị ai nấy đều nơm nớp lo sợ không hiểu rồi đây Sở Vương sẽ nhằm người nào mà khai thứ kiếm quái ác ấy nữa, nên Văn Công giật mình đánh thót một cái từ từ bước ra khỏi chỗ ẩn nấp :
- Muôn tâu, Bệ hạ có điều chi dạy bảo.
Trông thấy thái độ sợ sệt của Văn Công, Sở Vương phát tức cười :
- Khanh là thủ túc của Trẫm việc chi mà sợ? Âu Dương Nghĩa đã lừa ta. Y tráo cây Hùng kiếm giả. Sớm mai, Trẫm thân chinh đi Thất Lý sơn khám xét nhà y tìm thanh Hùng Kiếm thật. Văn khanh khá sửa soạn vệ quân. Tất cả trá hình thành khách thương để mọi người khỏi chú ý đến ta.
Văn Công lạy tạ lui về dinh. Sở Vương cũng cầm thanh Thư kiếm trở về hậu cung an nghỉ.
Hôm sau, Sở Vương và Văn Công lên đường đem theo hai mươi viên tùy tướng kéo dốc vào Thất Lý sơn. Văn Công cưỡi ngựa dẫn đường. Lúc tới nơi, thì toàn khu nhà Âu Dương Nghĩa trước kia gọn gàng xinh xắn như vậy mà nay chỉ còn là đống tro tàn. Những luống bông, đẹp đẽ đã bị cỏ mọc lấn khắp mọi nơi.
Sở Vương và Văn Công xuống ngựa trong khu đất bước lên những miếng tường nhà đổ nát tần ngần xem xét. Mấy con sóc núp dưới đống gạch vụn bị động chạy vụt vào các bụm cây bên vách núi.
Sở Vương khẽ gật đầu nói một mình :
- Âu Dương đoán được ý ta nên đã sửa soạn đủ cả trước khi đi! Đáng tiếc.
Quay lại nhìn Văn Công đứng ở phía sau, Sở Vương hỏi:
- Trước khi rời Thất Lý sơn, văn khanh có nhận thấy gì khác ở Âu Dương Nghĩa không?
- Muôn tâu y rất thản nhiên nên ngu thần không nghi ngờ chi cả.
- Đã đành, ngay đến Trẫm đã dự tính trước mà còn nhầm. Mất công mà không toại ý. Thôi về khanh.
Nói về Lý thị, khi Âu Dương Nghĩa vừa đi được ít ngày, tức khắc thu xếp mọi vật trong nhà cùng người lão bộc là Trương Đức đem hai con trai và tiểu đồng về quê ở Kinh Luân huyện thuộc nước Hàn. Trước khi đi, Lý thị bảo Trương Đức hỏa thiêu nhà cũ rồi mới lên đường. Ngoảnh lại trông ngọn lửa bốc cao thiêu rụi nơi tổ ấm trong khi người chồng thân yêu xa vắng nơi quê người không biết sống chết thế nào, Lý thị lòng đau như cắt, lệ mờ khóe mắt trung trinh.
Về quê ngoại được mấy ngày, một đêm mưa gió lạnh lẽo, nàng chong đèn ngồi bên giường khâu áo cho con và thỉnh thoảng âu yếm nhìn hai trẻ nhỏ ngây thơ ngủ say sưa. Trông con nhớ đến chồng, nàng gạt lệ đau thương. Nàng khâu, khâu mãi đến khuya bất giác, mệt mỏi quá, ngủ gục bên con lúc nào không biết. Bỗng gió thổi tung hẳn cánh cửa phòng, Lý thị giật mình vội vã chồi dậy định ra đóng cửa thì một người tóc rối bời rủ xuống mặt từ ngoài sân đen tối lù lù bước vào. Người đó tiến đến bên ngọn đèn dầu leo lắt đứng thẳng nhìn mẹ con Lý thị. Nhờ ánh đèn, nàng kinh ngạc nhận ra nét mặt âu sầu của chồng, người chồng yêu quý mà hàng ngày nàng đếm từng phút giây đợi từng giờ...
Nhưng lạ thay! Coi kìa, sao cổ chàng lại có một vệt đỏ chạy quanh máu từ vệt ấy vẫn còn thấm lần lần nhỏ giọt xuống án. Sắc mặt chàng trắng bệch.
Lý thị gọi :
- Lang quân.
Mừng mừng tủi tủi, nàng đưa tay định ôm lấy chồng thì Âu Dương Nghĩa vội vàng lùi lại ra hiệu bảo nàng ngồi nguyên ở giường.
Nghi hoặc, Lý thị gọi nữa :
- Kìa, lang quân! Làm sao vậy.
Âu Dương Nghĩa lẳng lặng nhúng tay vào ly nước để bên ngọn đèn viết ba chữ lên mặt bàn.
Viết xong chàng vẫy tay ra dáng từ biệt vợ con lùi dần ra cửa.
Lý thị thấy chồng bỏ đi, hoảng quá, vùng dậy đuổi theo nhưng một luồng gió mạnh thổi thuốc vào phòng bung cả rèm cửa khiến nàng lạnh quá tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn quanh... Không, ngoài trời im lặng như tờ, không hề mưa gió... Then cửa cài chặt, căn phòng ấm cùng như thường. Trên giường, ngay bên nàng hai trẻ nhỏ vẫn ngủ say, hơi thở đều đều.
Ồ, thì ra một giấc chiêm bao! Nàng mệt quá, ngủ thiếp đi mở thấy chồng về, tay nàng còn cầm chiếc áo khâu dở dang.
Nhưng kỳ thay, sao tóc chàng rũ rượi, sắc mặt trắng bệch, đầu tử khí, cổ vấy máu... Sao? Hay là... Chợt nhớ ra điều gì Lý thị vùng đứng dậy lên nhìn xuống chiếc mặt bàn nhỏ nơi mà vừa đây chồng nàng nhúng tay vào ly nước viết mấy dòng chữ... Ồ! Nét chữ hãy còn rành rành trên mặt bàn. Lý thị cúi xuống đọc:
"Sở Vương sát!"
Nàng hiểu ngay. Chồng nàng chết rồi nên linh thiêng về báo mộng cho mẹ con nàng biết kẻ sát nhân là Sở Vương tàn ác.
Đau đớn quá, Lý thị lăn ra giường vùi đầu xuống mền khóc không ra tiếng...
Âu Dương Thái chợt tỉnh ôm chầm lấy cổ mẹ thỏ thẻ :
- Mẫu thân à, con thấy phụ thân về bảo con báo thù, dặn con hỏi mẫu thân tên kẻ thù là gì...
Lý thị gạt nước mắt ôm lấy con, nói nhỏ :
- Lớn lên con sẽ biết...
- Ồ, sao mẫu thân lại khóc kìa!
- Ngủ đi con, kẻo em nhỏ mất giấc bây giờ, nằm xuống đây ngủ đi, mẹ thương.
Âu Dương Thái ngoan ngoãn theo lời mẹ.
Lý thị không khóc nữa. Bây giờ nàng đã biết sự thật, qua giấc chiêm bao, nhưng nàng căn cứ ba chữ mà chồng nàng đã hiện về báo thù viết trên bìa còn rõ rành rành! Mẹ con nàng phải tính cách báo thù.
Hôm sau, Lý thị phát tang lấy chiếc bàn nhỏ kê giữa nhà làm bàn thờ. Kỳ thay, ba chữ "Sở Vương sát" viết bằng cặn nước trà mà nay thẫm lại, rõ rệt như viết bằng sơn lau chùi cũng không đi được.
Lý thị lấy cây Trảm Lư hùng kiếm vẫn có mớ tóc buộc ở chuôi dựng trên bàn thờ, sớm tối thắp hương cầu nguyện.
Một hôm, Lý thị đang ngồi dạy hai con học thì bỗng nghe thấy tiếng trẻ trong thôn reo ầm ầm ngoài cổng và có tiếng hát.
"Ai ơi muốn báo thù chồng.
Cho con học tập gánh gồng theo ngay.
Ai ơi muốn báo thù cha.
Theo về Thất Lý lạy ta làm thầy".
Giọng hát ấm áp như tiếng chuông vàng. Lý thị lấy làm lạ không hiểu cây ngụ ý gì bèn giắt hai con đi ra cổng nhà xem.
Thì ra người có giọng tốt ấy là vị đạo nhân râu tóc trắng như cước, sắc diện hồng hào, vận đạo bào thiên lý, lưng đeo bầu nước, chống gậy trúc đi vừa nghêu ngao hát mấy câu trên.
Bọn trẻ trong thôn lấy làm lạ nên kéo nhau theo sau xem.
Đạo nhân hát một lần nữa.
Lý thị nghe rõ ràng lấy làm kỳ lạ bèn bảo Âu Dương Thái :
- Con hãy chạy ra mời đạo nhân vào nhà.
Âu Dương Thái vâng lời chạy tới trước mặt lão đạo nhân vái chào :
- Kính thưa sư phụ, gia mẫu mời người vào nhà lãnh giáo.
Đạo nhân dừng bước nhìn kỹ tiểu thị :
- Nhà con ở đâu?
Âu Dương Thái chỉ tay về phía nhà mình :
- Thưa sư phụ nhà con ở kia, mời người theo con.
Đạo nhân khẽ gật đầu, bảo :
- Con đi trước, ta theo sau ngay. Nhưng con tên là gì?
- Tên con là Âu Dương Thái.
Tiểu nhi nói đoạn đi trước, dẫn đường, đạo nhân mỉm cười theo sau.
Qua cổng vào tới nhà ngoài, Lý thị giắt tay Âu Dương Tòng lạy chào :
- Mẹ con ngu muội không hiểu câu hát của sư phụ, xin người vui lòng chỉ dẫn cho.
Lão đạo nhân lặng lẽ nhìn Lý thị và hai tiểu nhị vận đồ tang chỉ :
- Bàn thờ lệnh phu quân đâu.
Lý thị rơm rớm nước mắt :
- Thưa sư phụ, ở nhà trong.
- Bần đạo có thể vào bái linh hồn người được không?
- Dạ, nhưng xin sư phụ chước đi cho.
Lão đạo nhân cầm tay Âu Dương Thái đi thẳng vào nhà trong, đứng trước bàn thờ lặng lẽ nhìn hồi lâu rồi châm mấy nén nhang, cầm lấy cây Trảm Lư nhìn qua, đưa cho Âu Dương Thái mà rằng :
- Tiểu nhi muốn báo thù cha hãy đỡ lấy kiếm linh này lạy trước bàn thờ.
Âu Dương Thái rất tinh khôn, theo lời lão đạo nhân đứng bên lẩm bẩm nhỏ những gì không nghe rõ.
Trong giờ khắc nghiêm trọng, Lý thị cũng cùng Âu Dương Tòng quỳ xuống bên bàn thờ khấn vái linh hồn chồng chứng minh.
Lão đạo nhân khấn xong bảo mẹ con Lý thị đứng dậy, đỡ lấy cây trường kiếm tháo mớ tóc của người xấu số đặt lên bàn thờ và nói rằng :
- Bần đạo là Thất Lý đạo nhân tu ở trên đỉnh núi cuối dãy Thất Lý sơn. Trước đây linh cố phu quân đã có nhiều lần tới đó cùng nhau đàm đạo. Một hôm, bần đạo xuất sơn vân du vừa đi đến đầu Thất Lý sơn thì thấy người nước Sở đi cầu hiền đãi bén mách bảo những mong Sở Vương biết tài kẻ sĩ thâu dụng lệnh phu quân, ngờ đâu khi trở về qua nơi nhà cũ thấy đã bị hỏa thiêu. Bần đạo liền qua Sở thăm dò mãi mới tìm được Văn Công là xứ của Sở Vương. Bần đạo lập mưu khiến họ Văn phải thú thật việc Sở Vương đã manh tâm hãm hại lệnh phu quân. Nhớ rằng trước kia đã có lần lệnh phu quân cho biết rằng quê ngoại ở Kinh Luân huyện bên nước Hàn, nên Bần đạo tìm tới đây có ý muốn thâu lệnh lang làm đồ đệ để sau này đủ tư cách báo thù. Tự xét, Bần đạo thấy có phần trách nhiệm trong việc Sở Vương sát hại Âu Dương hiền sĩ vì chính bần đạo mách bảo Văn Công tới nhà Âu Dương. Nay thâu lệnh lang làm đồ đệ, bần đạo thấy lương tâm áy náy phần nào.
Âu Dương Thái nghe lão đạo nhân thuật lại chuyện xưa, bèn quỳ xuống lạy mẹ cho phép theo người về núi học đạo sau này báo thù.
Lý thị rất đỗi thương con còn nhỏ dại đã mồ côi cha, nay lại xa mẹ, nhưng biết làm sao? Nếu không cho con bái sư vào núi thì còn chờ việc nào tốt hơn nữa.
Lý thị chợt nhớ ra điều gì, liền giắt con đứng lên :
- Việc báo thù là bổn phận của mẹ con ta, Mẹ rất mừng thấy con chí khí, vậy để mẹ thưa lại một điều với sư phụ đây xem người dạy thế nào.
Thất Lý đạo nhân hỏi :
- Chẳng hay phu nhân có điều chi thắc mắc.
Lý thị nói :
- Mẹ con đệ tử vốn cư ngụ ở Thất Lý sơn đã lâu rồi, nay trở về, nhân tiện trông nom Âu Dương Thái theo sư phụ học hành có được không?
- Cũng được, nhưng không nên ở nơi nhà cũ vì Sở Vương hiện thời còn sống. Chi bằng lên cả trên núi ẩn danh mới được.
Lý thị bèn giắt Âu Dương Thái quỳ lạy đạo nhân :
- Kham khổ thế nào cũng được, miễn là Thái nhi có chốn học hành và mẹ con không phải xa cách nhau, vậy xin sư phụ hãy nhận lễ biết ơn của mẹ con đệ tử.
Thất Lý đạo nhơân đỡ mẹ con Lý thị dậy :
- Phu nhân liệu thu xếp hành trang, ba ngày nữa bần đạo sẽ trở lại đây rước đi.
Dứt lời, đạo nhân ra đi.
Lý thị bàn với lão bộc Trương Đức và người nhà rồi thu xếp cùng đạo nhân trở lại Thất Lý sơn dựng một ngôi nhà cỏ ở gần am thiên tạm trú trong thời gian hai anh em họ Âu Dương cùng thọ giáo.
Mười năm sau, lúc bấy giờ nước Sở đã mạnh, Bình Vương thi hành chương trình bình thiên hạ. Mục tiêu đầu tiên là diệt Hàn lấy lối đi.
Đoàn viễn chinh quân đóng trại trùng trùng điệp điệp cả ngoài kinh thành Thọ Xuân, chỉ còn chờ ngày lành là Sở Vương ra tế cờ thân chinh.
Ngay dịp đó, một hôm bỗng có hai đạo sĩ một già râu tóc bạc phơ Tiên Phong đạo cốt, đai giắt hồ lô, một trẻ trạc độ mười chín đôi mươi, mi thanh mục tú, lưng đeo trường kiếm, đủng đỉnh đi đến trước Ngọ môn cười sằng sặc xong rồi lại khóc một lúc.
Vệ Quân lấy lạ bèn chạy ra hỏi :
- Hai đạo sĩ điên rồi này sao lại tới chỗ cấm địa này mà cười cười khóc khóc? Biết điều đi nơi khác ngay.
Lão đạo sĩ điềm đạm nói :
- Bộ các ngươi thì biết gì mà hỏi lôi thôi! Ta muốn đi thì đi muốn đứng thì đứng, cấm làm sao được? Tiếc thay cho vị minh quân sắp xuất chinh mà ngu tối không hiểu gì cả...
Một vệ quân trừng mắt quát :
- Mấy nhà tu hành gàn dở này đi ngay, coi chừng phạm tội khi quân rụng đầu đó nghe.
Hai đạo sĩ vẫn đứng nguyên chỗ tiếp tục việc "khóc, cười".
Vệ quân bực mình đẩy hai người ra chỗ khác, nhưng lạ thay cả hai càng đứng vững như núi, lay không chuyển.
Viên trưởng đoàn lấy làm kỳ dị nghĩ thầm, chưa biết chừng hai đạo sĩ là bậc dị nhân có ích cho việc xuất chinh của Nhà vua, bèn vội vàng vào báo tự sự cho Sở Vương.
Lúc đó thì nhà vua đang sắp sửa dùng Ngọ phạn, nghe báo lấy làm lạ, tò mò truyền vệ quân điệu hai đạo sĩ đó vào nội điện.
Sở Vương nghĩ thầm :
- Quả nhân vẫn muốn thâu những bực dị nhân có thể giúp ích cho cuộc trường chinh sắp tới đây, biết đâu không phải là hai người này.
Nghĩ vậy, Nhà vua liền truyền hoãn dọn bữa, chờ xem bọn đạo sĩ làm gì.
Lát sau, vệ quân dẫn đạo sĩ vào tới nơi. Hai người nhìn Sở Vương không chớp mắt hồi lâu bỗng quỳ cả xuống bái kiến, Lão đạo sĩ nói :
- Cúi xin minh quân tha tội mạn thượng cho, nhưng bần đạo vân du khắp thiên hạ mà đến nay mới thấy Thánh thượng quý tướng dáng ngôi Hoàng đế trị vì thiên hạ thâu gồm chư hầu về một mối giang san, hiềm có một điều...
Trúng tâm lý, Sở Vương khoan khoái thân đỡ hai đạo sĩ dậy, ban kỷ cho ngồi, ngắm nghía nhận xét thấy hai đạo sĩ quả rất đạo mạo tiên cốt, lấy làm đẹp ý hỏi rằng :
- Nhị vị đạo hiệu chi, từ đâu qua đây? Có thuật chi giúp quả nhân trong cuộc thân chinh này?
Lão đạo sĩ nói :
- Muôn tâu, bần tập tu ở Thái Hàng sơn, đạo hiệu là Kiếm Phong, còn ngu đồ là Kiếm Vân, nay y đã tứ tuần...
Sở Vương ngạc nhiên ngắt lời :
- Tứ tuần! Sao còn trẻ như người mới đôi mươi vậy?
- Muôn tâu, bần đạo nghiên cứu thuật trường sanh bất lão, mãi sau này mới đạt được kết quả nên thử áp dụng cho Kiếm Vân, bởi vậy y mới được trẻ mãi từ năm mười tám cho đến nay không hề thay đổi.
- Riêng phần bần đạo thì chỉ được trường sanh chớ không được trường thiếu. Năm nay ngót chín mươi ba tuổi mà còn tinh tường khỏe mạnh như thế là nhờ thuật đó.
Sở Vương mừng rỡ :
- Tiên trưởng có thể giúp quả nhân được không?
Muôn tâu, chuyến này từ Nam Hải qua Sở cũng vì coi thiên văn thấy Đế tinh chói sáng ở đây, nên bần đạo cũng có ý giúp Bệ hạ đúng vận mạng người có tướng tinh được hưởng thì sẽ thất đức, nên bần đạo phải thận trọng.
Sở Vương gật đầu ngẫm nghĩ giây lát :
- Cớ sao tiên trưởng lại khóc, cười trước Ngọ môn vậy :
- Muôn tâu nếu không mạo muội thì làm sao được vào bệ kiến ngay.
Sở Vương đắc ý mỉm cười :
- Bây giờ Trẫm phải theo điều kiện gì để được hưởng trường sanh bất lão.
- Thưa rất khó và cũng rất dễ tùy theo trường hợp của từng người. Trước hết, bần đạo cần có một chiếc vạc dầu cỡ trung bình, sau là hai chiếc sọ người.
Sở Vương giật mình hỏi :
- Sọ người!
Lão đạo sĩ khẽ gật đầu chậm rãi :
- Muôn tâu, chính vậy. Hai sọ người. Một cái của tên tử tù và một cái của thuật gia đúc võ khí. Có vậy thôi. Sở dĩ bần đạo nói là khó vì kiếm đâu ra sọ thuật gia đúc võ khí.
Sở Vương liên tưởng đến đầu Âu Dương Nghĩa năm xưa, bèn gật gù phán rằng :
- Được, Trẫm có thể cho kiếm ngay được. Chừng nào tiên trưởng thi hành? Trẫm sắp xuất chinh, không chờ được lâu.
- Muôn tâu, ngay đêm nay, giờ Tý trong một căn phòng kín đáo chỉ có Bệ hạ và chúng bần đạo.
Sở Vương ưng thuận, lưu hai đạo sĩ lại trong cung ban tiệc chay và ngay chiều hôm đó đòi Văn Công vào chầu truyền lệnh lấy sọ Âu Dương Nghĩa và sọ một tên tử tù.
Văn Công lúc đó thăng tới chức Tư Mã Đại Phu lấy làm ngạc nhiên hỏi nhà vua, nhưng Sở Vương giấu nhẹm, không trả lời rõ.
Tuy vậy, chung quanh võ phòng là nơi đặt vạc dầu, Sở Vương cũng cắt đặt vệ quân canh phòng nghiêm ngặt.
Đêm hôm ấy, hai đạo sĩ thiệt ra là Thất Lý đạo nhân và Âu Dương Thái vận đạo bào trông coi đun vạc dầu cho thiệt sôi.
Trên án thư gần đó để chiếc khay bày hai đầu lâu phủ vải trắng.
Đúng giờ Tý, Sở Vương vận thường phục tới. Thất Lý đạo nhân nói :
- Muôn tâu, bệ hạ tự tay bê chiếc khay này bày lên án thờ và thắp hương khấn theo nguyện vọng của bệ hạ.
Sở Vương lặng lẽ theo lời.
Chờ nhà vua khấn xong, Thất Lý đạo nhân và Âu Dương Thái cũng quỳ xuống trước bàn thờ, cũng khấn lẩm nhẩm hồi lâu, lão đạo nhân đứng lên giả đò đọc chân ngôn thần chú bùa trên hai đầu lâu, rồi mở hẳn vuông vải trắng ra thấy đề ở chiếc sọ bên tả Hoàng Vượng. Còn chiếc bên hữu thì đề Âu Dương Nghĩa.
Uất hận trào lên tận cổ Âu Dương Thái cố dằn lòng điềm tĩnh hành lễ theo mưu kế do Thất Lý đạo nhân vạch sẵn.
Trước hết, Âu Dương Thái trịnh trọng bê chiếc đầu lâu Hoàng Vượng nhẹ tay thả vào vạc dầu.
Thất Lý đạo nhân nói với nhà vua :
- Tâu bệ hạ, chừng nào bần đạo rắc thuốc làm phép, nếu có khói bốc lên thì bệ hạ khá cúi đầu trên mặt vạc dầu hô hấp lấy thứ khói đó cho ngấm vào lục phủ ngũ tạng. Hết khói mới ngừng để chờ giai đoạn thứ hai.
Nói đoạn, lão đạo nhân dốc hồ lô đổ ra mấy hoàn thuốc trắng, liệng từng hoàn một vào vạc dầu, lẩm nhẩm đọc chân ngôn, tay bắt quyết.
Quả nhiên, lát sau, một lần khói trắng từ chiếc đầu lâu lững lờ bay lên. Sở Vương đứng chờ sẵn bên vạc dầu liền cúi xuống thật tình hô hấp làn khói kỳ diệu ấy để được... trường sinh bất tử.
Thừa dịp nhà vua đang mải miết với làn khói... nhiệm mầu, Âu Dương Thái lẹ như chớp, tuốt Trảm Lư hùng kiếm quát lớn :
- Ác vương, coi con Âu Dương Nghĩa báo thù.
Một làn kiếm hoa lên, đầu Sở Vương rụng xuống v
Trong Tam Môn cốc chỉ có hai trang trại nuôi gia súc, trừ những người lui tới giao dịch buôn bán quen thuộc với hai Trại chủ, ngoài ra không có một ai xa lạ qua lại khu vực này cả. Bởi vậy, khi mới thấy người thọt chân bước thấp bước cao, trên đường khô khan đầy sỏi đá, hai cha con họ Địch và Lâm Diêm Bá lấy làm lạ lùng, không ai bảo ai mà cũng nhìn nhau thăm dò ý kiến.
Họ chắc chắn cũng không phải khách của bên Hàn gia trại nữa, vì không có ai lại dại đi bộ vào Tam Môn cốc, để điều đình mua hay bán gia súc với họ Hàn, Địch. Những người ấy không đi ngựa thì dùng xe.
Đang tập tễnh chống gậy đi giữa đường, chợt nghe thấy tiếng vó ngựa ở phía sau, người thọt chân vội tránh bên ven đường, ngừng bước chống gậy chăm chú nhìn.
Đoàn người ngựa cũng nhìn lại nhận xét. Chờ ngựa đi qua hắn ít bước, Địch Lân mời dừng ngựa hỏi :
- Tiên sinh từ phương xa tới, tìm kiếm ai trong khu này?
Người kia đưa mắt nhìn Địch Lân qua Lâm Diêm Bá rồi tới Phượng Tiên và Tú Kiều, như kẻ không nghe thấy câu hỏi của họ Địch.
Địch Lân cũng mặc xem người đó định làm gì.
Giây lâu, nhìn hầu như đã chán mắt, người lạ mới cất giọng ấm áp :
- Dạ, tôi từ Bắc Hà tới. Phải chăng người là Trại Mạnh Thường.
Nói đoạn người ấy lại đăm đăm nhìn họ Địch không chớp mắt.
Địch Lân cười ha hả :
- Lão phu biết ngay là khách lạ lầm đường mà!... Không, tôi không phải Trại Mạnh Thường, nhưng có quen với người ấy. Tiên sinh cần điều chi, tôi xin giúp.
Người thọt chân bèn khoanh tay vái chào bộ tịch rất đường hoàng :
- Đa tạ lão tiên sinh có lòng giúp, tôi chỉ cần biết đường vào Âu Dương trang thôi.
Địch Lân xuống ngựa đáp lễ :
- Đây là con đường khi chính Đông vào Tam Môn cốc có bản trại, và một trại nữa nuôi gia súc. Còn đường vào khu đại trang của Trại Mạnh Thường thì ở lối Đông Bắc. Giờ đây hãy còn sớm, đường không xa mấy, chúng tôi sẵn ngựa xe nếu tiên sinh không nề hà, tôi sẽ chờ người tới tận nơi.
Người thọt chân tươi nét mặt :
- Như vậy phiền lão tiên sinh đi lại mất cả ngày giờ?
- Không, chỉ xa hơn chút đỉnh thôi. Lối đó đi vòng cũng tới bổn trại. Tiên sinh muốn dùng ngựa hay ngồi xe.
Nhìn qua hai thiếu nữ trên xe, người ấy đáp :
- Lão tiên sinh cho tôi ngồi ngựa được không.
- Tiên sinh tự cầm cương lấy!
- Dạ, thế cũng được.
- Nào, xin mời.
Người đó tấp tểnh đi đến bên con ngựa.
Địch Lân nhận thấy y bị thọt nhiều bèn đổi ý :
- Hay là mời tiên sinh lên xe, tôi cầm cương. Hai tiện nữ đây cũng biết kỵ mã.
Nghe vậy, Phượng Tiên và Tú Kiều cùng xuống xe nhường chỗ.
Địch Lân toan đỡ người lạ lên xe, nhưng y đã nói :
- Khỏi phiền lão tiên sinh, tôi lên được.
Nói đoạn, y chống tay vào thành xe nhảy một chân lên xe khá lẹ làng rồi dựng cây gậy sang một bên.
Địch Lân chờ Phượng Tiên và Tú Kiều lên ngồi chung ngựa của mình, rồi mới lên xe cầm roi quất bốp một tiếng, thúc ngựa quay trở ra đầu đường, rẽ lên hướng Đông bắc.
Chị em Phượng Tiên và Lâm Diêm Bá theo sau.
Trong khi đi đường, Địch Lân hỏi khách lạ :
- Tiên sinh đi ngựa hay xe từ Hà Bắc xuống Tô Châu?
- Dạ, tôi đi xe theo các đoàn khách thương.
- Đường đi có bình an không?
- Có mấy nơi nguy hiểm, nhưng nhờ tiêu sư kinh nghiệm nên đi thoát.
Địch Lân nhìn người nọ :
- Nếu tiên sinh thuê xe vào Âu Dương trang đã không đến nỗi lầm đường.
- Người ta chỉ lối cho tôi đi và bảo là gần nên tôi mới đi chân.
- Chao ôi! Gần thì cũng bảy, tám dặm đường.
- Tôi may mắn nên được gặp lão tiên sinh giúp cho phương tiện tới nơi. Chắc người cũng thân giao với lão anh hùng Trại Mạnh Thường.
- Có chớ! Nhưng chẳng nói gì tôi, cả thị trấn Tô Châu này và hơn nữa, toàn cõi Giang Nam ai ai cũng nghe danh Trại Mạnh Thường. Trong trang lúc nào cũng có vài trăm miệng thực khách từ khắp bốn phương trời qua đó đủ các hạng người giang hồ hảo hán, quái khách dị nhân chẳng thiếu một ai.
Hai người thủng thẳng chuyện trò, không mấy chốc đã tới Âu Dương trang.
Khách lạ xuống xe từ biệt Địch Lân rồi đứng sang bên đường chờ đoàn người ngựa đi khỏi mới chống gậy chập chững tiến tới cổng trang.
Tráng đinh thấy người thọt chân, lưng đeo trường kiếm thì tò mò nhìn. Khách lạ cũng nhìn quanh hồi lâu mới từ từ đi vào. Tráng đinh trình cuốn sổ ghi danh.
Người nọ lật mấy trang sổ đọc qua rồi cầm bút ghi "Lư Cầu Kiều Tề Quân Bảo", nét chữ rắn rỏi lạ thường.
Ghi danh xong, Tề Quân Bảo bảo :
- Tôi muốn gặp Chu gia song hiệp, hiện có mặt tại đây chớ.
Tráng đinh đáp :
- Xin quý khách theo tôi nhập trang, chừng nào gặp Trang chủ sẽ biết rõ.
Họ Tề điềm đạm :
- Làm ơn vào báo trước, tôi tự kỷ vào sau.
Thấy thái độ dị kỳ của tân khách, tráng đinh lấy làm lạ nhìn kỹ rồi bảo một tráng đinh khác :
- Vào đại sảnh báo với Trang chủ đi.
Chờ tên tráng đinh đó đi khỏi hồi lâu, Tề Quân Bảo mới đủng đỉnh chống gậy đi vào.
Lúc đó Trại Mạnh Thường đang ngồi ở hậu đường, đàm luận cùng Chu gia và ba con thì tráng đinh vào báo :
- Thưa Trang chủ, có khách lạ họ Tề ở Lưu Cầu Kiều muốn gặp Chu thiếu gia và Nữ hiệp.
Trại Mạnh Thường cau mày hỏi :
- Sao các ngươi không theo thường lệ mời vào ngay.
- Thưa, Tề tân khách nhất định nhờ vào báo trước.
- Người đó thế nào?
- Thưa tân khách mi thanh mục tú, đeo trường kiếm nhưng... thọt chân.
Lão anh hùng nhìn anh em Chu gia có ý hỏi. Lam Y và Chu Đức Kiệt nhìn nhau, lắc đầu tỏ ý không quen ai họ Tề ở Lưu Cầu Kiều mà thọt chân cả.
Âu Dương Tòng Cát nói :
- Thì cứ ra xem là ai đã, rồi sẽ hay.
Sáu người cùng đẩy kỷ đứng dậy, ra đại sảnh, bước xuống thềm nhìn họ Tề đang lững thững đi vào. Cách nhau độ mươi bước, Tề Quân Bảo ngừng lại dương cặp mắt sáng như sao mai, nhìn từ người nọ đến người kia hồi lâu mới lên tiếng :
- Vị nào là Chu gia song hiệp.
Từ này, sáu người lấy làm lạ, về thái độ kỳ dị của tân khách, nhưng cũng mặc xem họ Tề hành động thế nào.
Thấy hỏi đến tên mình, anh em Chu gia thận trọng tiến lên hai bước cùng đáp :
- Chúng tôi đây.
Tề Quân Bảo lại trừng trừng nhìn hồi lâu rồi bỗng quái tài tay hữu rút phắt thanh trường kiếm co chân hữu bị thọt lên, toàn thân dồn cả vào chân tả, giơ kiếm ngang mặt rồi lại đăm đăm nhìn, sắc diện tái đi lạnh như tiền.
Thanh kiếm bị rút soạt ra khỏi vỏ, long lanh sáng ngời tia ra muôn vạn hào quang dưới ánh Thái Dương le lói, khi kiếm lạnh ngắt như giá băng.
Không ai bảo ai, sáu người cùng lùi lại mấy bước tưởng vị kiếm gia nào có thù tới gây sự đây!
Nhưng không! Tề Quân Bảo vẫn đứng y nguyên độc cước như con hạc đậu trên mỏm đá vậy. Bỗng họ Tề cười ha hả, ghê rợn, lao thanh trường kiếm cắm phập xuống đất cách nơi Chu gia song hiệp vài bước, giãi kiếm đỏ lừ phe phẩy trước gió thu man mát.
Buông chân chưa thọt xuống, Tề Quân Bảo đưa tay hữu chỉ kiếm hất hàm hỏi anh em Chu gia như thách thức :
- Xin mời coi kiếm gì đây.
Không do dự, Lam Y nữ hiệp nhìn quanh một vòng, lúc đó mọi người trông thấy lạ đều kéo tới đứng xem đông đảo, bước tới rút cây trường kiếm lên, lật đi lật lại nhận xét, đoàn nàng tiến thêm mấy bước nữa đảo kiếm hoa lên mấy đường linh diệu toàn thân uyển chuyển tựa giao long, lưỡi kiếm rít lên từng hồi bao phủ quanh mình nàng lạnh lẽo như sương lam một buổi chiều tà sơn cước.
Tề Quân Bảo tươi hẳn nét mặt, mê man nhìn vị cân quắc giai nhân thử kiếm.
Nữ hiệp ngừng tay thâu kiếm giữa những tiếng hoan hô vang dậy, xem lại một lần nữa, nhìn thẳng vào mặt Tề, buông xõng :
- Trảm Lư hùng kiếm.
Nghe vậy, Tề Quân Bảo tháo dây đeo kiếm quỳ xuống tam bối, hai tay nâng lên ngay trán :
- Từ nay, báu kiếm này đã có chủ, Tề mỗ xin người nhận lấy và cho phép tôi thưa một điều...
Lam Y đỡ Tề Quân Bảo dậy, nhưng y lắc đầu :
- Xin người nhận kiếm linh này đã! Tôi từ Bắc xuống Nam chỉ có một việc đó.
Lam Y đỡ lấy bao tra kiếm vào vỏ. Tề Quân Bảo liền đứng lên, Lam Y chỉ họ Âu Dương giới thiệu từng người một.
Họ Tề nghiêm chỉnh thi lễ và nói với Trại Mạnh Thường :
- Tự nhiên tới quý trang khinh động, mong lão anh hùng đại xá.
Trại Mạnh Thường vui vẻ khoác tay Quân Bảo dìu lên đại sảnh :
- Khách quý đến nhà là nguyện vọng của lão phu, xin mời vào nhà đã, sẽ nói chuyện sau.
Bảy người cùng vào đại sảnh, phân ngôi chủ khách, gia nhân dâng trà.
Lam Y nữ hiệp đặt thanh trường kiếm lên giữa án, chỉ hai chữ "Trảm Lư" bằng vàng dát trên vỏ kiếm đồng Hoài Ngọc sạm màu khói, và chữ Hùng cũng bằng vàng ở chuôi kiếm cho mọi người xem.
Trại Mạnh Thường nhấc kiếm lên ra khỏi vỏ tấm tắc khen ngợi và chuyền tay cho ba anh em Tòng Cát xem.
Âu Dương Bích Nữ xem kiếm sau chót, khen ngợi luôn miệng mãi mới đặt kiếm xuống mặt án.
Lam Y nhìn nàng tủm tỉm cười, ngụ ý gì mà cô gái Thiếu Lâm tự chưa hiểu.
Chu Đức Kiệt nhìn Tề Quân Bảo :
- Sao tiên sinh biết anh em tôi ở Âu Dương trang mà xuống tận đất Giang Nam này tìm.
Tề Quân Bảo chậm rãi :
- Đại danh nhị vị ở Hoa Bắc, ai ai cũng biết, nên tôi mạo muội vào Bình Dương huyện xin yết kiến để cậy nhờ một việc tối ư quan trọng cho đời tôi.
- Tiên sinh biết sanh quán chúng tôi ở Bình Dương huyện.
Họ tề gật đầu :
- Dạ, nhờ sự ngẫu nhiên. Nhị vị có quen biết một người nào tên là Lôi Vân Long không? (muốn biết Lôi Vân Long là nhân vật nào, bạn đọc thân mến hãy coi lại Giang Hồ Kỳ Văn từ số đầu).
Chu Đức Kiệt nhìn Lam Y rồi đáp :
- Có, Tề tiên sinh cũng biết người đó.
- Tôi đã nói là do một sự ngẫu nhiên. Nguyên do cách đây độ hai năm, một buổi chiều mùa hạ, mưa gió tầm tã, có hai người khách lạ, vào khu trại nhỏ của tôi xin trú mưa.
- Bản trại ở đầu phía Bắc Lư Cầu kiều chắc nhị vị thừa biết khu đó?
Đức Kiệt gật đầu :
- Chúng tôi đã qua lại nơi ấy mấy lần. Khu Bắc phần nhiều là trang trại, chớ không tấp nập như nơi trung tâm.
- Dạ, chính thế. Bởi vậy hai người khách lạ cố đi tới đó có lẽ bị thương mưa nặng hột quá nên rẽ vào tệ gia trú mưa.
Người trẻ tuổi trạc ngoại tam tuần dong dỏng cao, quắc thước, khỏe mạnh. Còn người kia là đạo sĩ trạc năm mươi, năm mươi sáu tuổi, béo mập, diện mạo không được hiền từ.
Theo cách xưng hô thì hai người đó là sư đệ. Người học trò Lôi Vân Long, đạo sĩ tên gì không rõ, nhưng vận bào bát quái...
Lam Y nữ hiệp nhìn mọi người giải thích :
- Đó là Bát Quái đạo sĩ, sư phụ của Lôi Vân Long... Thế rồi sao nữa hả Tề tiên sinh.
Tề Quân Bảo nói tiếp :
- Lúc đó trời đã tối, mưa vẫn nặng hột, tôi khoản đãi hai người. Trong khi chuyện trò, họ có nhắc tới nhị vị và tỏ thái độ không được quân tử, bởi vậy sau khi họ mời về tư phòng, tôi cố ý rình nghe xem hai người ấy nói những gì nữa...
Lôi Vân Long nói :
- Hai anh em Lam Y nổi danh hành hiệp mà bao nhiêu lâu nay đệ tử tìm kiếm cũng không hề gặp thế mới lạ kỳ.
Đạo sĩ suy nghĩ hồi lâu :
- Hay là chúng ta về cả Bình Dương huyện.
- Không đệ tử mới về Sơn Đông mà không gặp.
Hôm sau hai người từ tạ ra đi.
Tề Quân Bảo nhắp hụm trà, nói tiếp :
- Riêng phần tôi, từ ngày được nghe danh nhị vị cũng muốn được diện kiến, để yêu cầu một việc, nhưng nhị vị như cặp nhạn phương trời, lần nữa mãi, mấy tháng trước đây, tôi sang Bình Dương huyện hỏi thăm tới quý trang thì Vương quản gia cho hay là nhị vị đã xuống Giang Nam từ hồi đầu năm.
Thăm dò mãi có người khuyên nên đến trang trại Âu Dương lão anh hùng là nơi có nhiều giang hồ hảo hán qua lại, may ra biết tin tức gì chăng, và quả nhiên tôi đã gặp cái may hãn hữu ngay hôm nay.
Lam Y hỏi :
- Thế còn thanh trường kiếm này.
Nhìn thanh kiếm báu, Tề Quân Bảo khẽ gật đầu :
- Dạ, tôi xin nói tiếp. Cây Trảm Lư này của nội tổ tôi là Tề Kim Báo, xưa kia theo Mã Định Quốc. Nguyên soái bình thiên hạ đoạt được của tướng Kim. Truyền đời đời gia phụ, Tề Minh Châu bỏ học võ cần công chẳng hành, danh chẳng đạt, làm một chức quan nhỏ dưới quyền Tỉnh Vương Chu Trường Đức. Chẳng ngờ đệ tam Thế tử của Tĩnh Vương là Chu Vĩnh An tánh tình dâm dật, thấy gia mẫu nhan sắc nên tìm cách hãm hại gia phụ những mong đoạt vợ người. Lúc đó tôi còn nhỏ tuổi, gia mẫu bèn giao phó tôi và cây báu kiếm cho người cửu phụ lánh về Lư Cầu kiều, trối trăng lại phải báo thù và tuẫn tiết theo gia phụ. Nhưng không may cho tôi, năm mười ba tuổi, lâm bệnh suốt một năm trời, khi khỏi thì chân hữu bị thọt không sao lành được nữa. Kẻ thù vẫn ngang nhiên sống trên nhung lụa bổ nhiệm Tổng đốc Hàng Châu, riêng tôi, tấm thân tàn phế biết hành động ra sao cho thỏa oan hồn mẹ, cha dưới cửu tuyền? Lần nữa mãi sau đây nghe đại danh nhị vị thiên hành hiệp, tôi ao ước được gặp kính dâng báu kiếm, bái thỉnh khách anh hùng vì họ Tề chúng tôi rửa mối thù huyết hận. Bởi vậy hôm nay, Tề Quân Bảo tôi ngông cuồng dâng kiếm thì quả nhiên danh bất hư truyền, hiệp khách anh hùng nhận ngay ra được báu vật. Chủ cây kiếm ấy, xứng đáng vô cùng.
Nói đoạn, Tề Quân Bảo đứng dậy tấp tểnh đến trước mặt anh em Chu hiệp quỳ lạy khóc rưng rức, khiến ai nấy đều cảm thương, hùng khí nổi lên muốn bắt ngay gian vương tán ác, moi gan xé ruột báo thù thay cho họ Tề.
Chu Đức Kiệt đỡ Quân Bảo :
- Tiên sinh khá an lòng anh em tôi sẽ vì người báo thù. Công tiin sanh lặn lội ngàn dặm tới đây tất không uổng, vậy hà tất ưu phiền.
Lam Y nói :
- Chúng tôi hành hiệp có ba người. Chu huynh đã có Thất Tinh đao, phần tôi có Thái Dương kiếm đều do sư phụ Đức Võ Thượng Nhân trao tặng. Riêng Âu Dương tẩu tẩu Bích Nữ đây còn thiếu gươm linh, vậy hãy nhận luôn cả sứ mạng báo thù giúp Tề Quân.
- Thanh báu kiếm Trảm Lư quả có mối duyên kiếp lạ lùng với Âu Dương, và ngay cả đến mối thù của Tề Quân cũng có một sự liên lạc vô cùng mật thiết.
Mọi người nghe Lam Y nói vậy đều ngạc nhiên nhìn nhau.
Nữ hiệp hướng sang Chu Đức Kiệt :
- Hiền huynh chắc thừa hiểu ngu muội muốn nói gì.
Đức Kiệt gật đầu cất giọng trầm trầm.
Hồi theo gia sư học đạo trên Cửu Huyền sơn ngoài cửa Quan, anh em tôi được đọc cuốn Cổ Kim Bảo Kiếm Tùng Thư do tổ sư Huyền Vân trưởng lão truyền lại.
Vốn chuyên về kiếm thuật, gia sư đã đạt được phương pháp luyện thép được đúc báu kiếm không thua gì những cây danh kiếm ngàn xưa, Lợi Giả Thủy Đoạn Giao Long, Bộ Hoa Tây Tượng Trảm Thiết Nhị Nể. Kết quả của công phu nghiên cứu ấy là thanh Thái Dương trường kiếm của gia muội Tú Anh đang dùng.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc có mười tám thanh kiếm báu, chia làm hai thời kỳ luyện đúc.
Mười cây trước là Long Tuyền, Thái A, Bạch Hồng, Từ Điện, Can Tương, Mạc Gia, Ngư Trường, Cản Khuyết, Trảm Lư Hùng, và Trảm Lư Thư.
Đến Việt Vương Câu Tiễn đem Kiếm gia họ Hoàng tên Giả lên Côn Ngô Sơn dùng bạch ngưu, bạch mã tế thiên, địa, đúc thêm tám bảo kiếm nữa là Đoạn Thủy, Yểm Nhật, Huyền Tiên, Chuyển Phách, Chân Cương, Diệt Hồn, Khước Tà, Kinh Nghê.
Thanh nào cũng sắc bén chém sắt dễ dàng như chém tre, đặt sợi tóc lên lưỡi kiếm thổi đứt, sắc kiếm long lanh như tỏa hào quang, lãnh khí rợn người, không bao giờ vấy máu đáng kể như danh cụ xuất xứ.
Hôm nay, nói riêng Thái Lý Sơn ở giáp giới hai nước Hàn và Sở, có một thuật gia nổi tiếng về môn luyện thép, và đúc kiếm báu họ Âu Dương tên Nghĩa tự là Thạch Bằng, vợ là Lý thị người nước Hàn.
Vợ chồng Âu Dương Nghĩa sanh được hai con trai, đứa lớn đặt tên là Thái, đứa thứ nhì là Tòng. Cả hai đều còn nhỏ tuổi.
Âu Dương Nghĩa chế được phương pháp luyện vàng, bạc và thép thâu tinh hoa Nhật, Nguyệt bốn phương, tám hướng, đúc được Thư kiếm và Hùng kiếm sắc bén vô cùng, chém sắt đá như bùn.
Khi hoa lên, làn Thư kiếm màu trắng xanh và làn Hùng kiếm màu lam lợt. Tuốt ra khỏi bao, để hai lưỡi thư, hùng gần nhau, thì phát ra thứ âm thanh vi vu nhè nhẹ tựa thông reo.
Dãy Thất Sơn chạy dọc biên giới Hàn Sở một khúc dài trên hơn hai chục dặm, nên phân nửa thuộc Hàn, phân nửa thuộc Sở. Chia ra như vậy, thiệt ra dân sơn cước trong dãy Thất Lý sơn sống hoàn toàn độc lập, không có quốc gia nào cả, chẳng theo Hàn và cũng không ngả về Sở.
Hồi đó, Sở Bình Vương là một tay kiếm đại tài, có ý thâu gom thiên hạ, đích thân chinh chiến nên muốn được kiếm báu phòng thân.
Sở Vương bèn cho người đi khắp mọi nơi tìm danh nhân đúc kiếm đem về Sở.
Mật sứ viên là Văn Công đi khắp nước nọ, nước kia trong mấy năm trời tìm thuật đưa về cho Sở Vương, nhưng tuyệt nhiên không kiếm được người nào sở dĩ đúc nổi kiếm báu theo ý muốn của vua Sở.
Văn Công buồn rầu, trở về thì Sở Vương quở trách, mà đi nữa thì thập bát chư hầu đã qua hết rồi, còn biết tìm kiếm danh nhân nơi đâu?
Một hôm lang thang về tới đầu dãy núi Thất Lý sơn, Văn Công do dự không biết nên về hay nên đi nữa, bèn ngồi thần người ra trên phiến đá rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Lúc hoảng hốt tỉnh dậy, Văn Công cảm thấy như đã có người nào vừa qua đây ngó trước ngó sau, thì thấy một mảnh giấy vàng phất phơ trên càng cây thấp sà xuống phía sau phiến đá. Văn Công lấy làm lạ cầm lấy mảnh giấy thấy ghi có hàng chữ: "Trung ương Thất Lý đắc hữu kiếm thuật gia Âu Dương chi mệnh danh", nét chữ mềm mại như rồng bay phượng múa.
Chạy đâu đó nhìn chẳng thấy bóng người, kêu lớn lên mấy tiếng thì chỉ âm vang vách núi đập lại, nhưng Văn Công vẫn lấy làm mừng rỡ cho rằng gặp tiên chỉ bảo giúp mình vào khu trung ương dãy núi Thất Lý sơn, tìm thuật gia họ Âu Dương đem về Sở đúc kiếm.
Quỳ xuống bái tạ tiên nhân đã chỉ điểm giúp mình, Văn Công đeo hành lý thất thểu đi theo dãy núi hỏi thăm.
Quả nhiên có họ Âu Dương thật ở ngay khu trung tâm dãy núi Thất Lý.
Nhìn kỹ địa điểm, Văn Công về thẳng nước Sở ra mắt nhà vua, trình bày tự sự.
Sở Vương mừng lắm hậu thưởng cho Văn Công, và cho cầm đầu một phái đoàn vào núi Thất Lý rước cho kỳ được họ Âu Dương về Sở.
Chuyến này đi đông người lại có ủy nhiệm thơ của Sở Vương, Văn Công không do dự nữa đến thẳng nhà Âu Dương nghĩa.
Khi gần tới nơi, Văn Công bảo bọn tùy tùng :
- Ta có lệnh của Quốc vương đi mời chủ nhân khu nhà kia. Nếu y không chịu đi theo, ta sẽ ra hiệu các ngươi cứ việc xông vào bắt đem đi. Tuy vậy, không được bạo động đánh đập người ta nhé.
Văn Công cho đoàn tùy tùng đứng ở nơi khuất, rồi ung dung bước tới gọi cổng.
Thư đồng chạy ra lễ phép chào khách lạ.
Văn Công hỏi :
- Âu Dương tiên sinh có nhà không?
- Thưa có, người cho biết quý danh để con vào báo.
- Ngươi cứ nói là có người bạn nước Sở?
Thư đồng mở cửa mời khách vào rồi lon ton chạy vào trong nhà.
Đủng đỉnh dạo quanh mấy luống bông trong thửa vương xinh xắn trước mấy căn nhà mái rơm tao nhã, Văn Công nghĩ thầm:
"Công hầu vương bá mà chi, đời sống ẩn dật trong thâm sơn thiệt là an nhàn sung sướng".
Văn Công đang mông lung với cảnh vật nên thơ, thì một người trạc ngót tứ tuần tóc búi ngược, dong dỏng cao, nét mặt thanh tú, râu năm chòm đen lánh, dài xuống quá ngực, vận áo dài lụa xanh, dây lưng đen, từ trong nhà bước ra ngoài hành lang vái chào.
- Tôn ông muốn gặp tôi, phải không.
Văn Công đáp lễ :
- Tôi là Văn Công từ Thọ Xuân (kinh đô nước Sở) tới đây để trao lại hầu tiên sinh một bức văn thơ.
- Xin mời tôn ông vào nhà.
Chia ngôi chủ khách xong, Âu Dương Nghĩa hỏi :
- Kẻ ẩn dật sơn dã này còn có việc chi ở ngoài đời khiến tôn ông phải tốn công tới đây.
Văn Công lấy trong ngực áo ra một bức thư đưa cho Âu Dương Nghĩa :
- Lá thơ này do chính tay Sở Vương tự thảo, tiên sinh đọc sẽ rõ.
Âu Dương Nghĩa nhìn Văn Công dò ý, đỡ lấy bức thơ, bóc vội ra đọc.
"Thư rằng.
Sở Bình Vương gởi Âu Dương ẩn sĩ nhã giám.
Nghe danh hiền sĩ, Trầm muốn thân tới Thất Lý sơn bái thỉnh. Song lẽ công việc triều chính bộn bề không thể rời kinh thành, nên nhờ Văn khanh thay mặt thỉnh cầu hiền sĩ về triều cùng Trẫm thảo luận một việc trọng hệ. Mong hiền sĩ thể tình thu xếp lên đường ngay cùng Văn khanh. Chớ để Trẫm mong chờ.
Nay thỉnh".
Đọc xong, Âu Dương suy nghĩ biết không đi tất chẳng xong, vì không lẽ Văn Công đi có một mình. Lời lẽ trong thư tuy khiêm tốn nhưng ẩn một mệnh lệnh triệu gấp, chối từ sao nổi! Mình thì là một người biết đúc kiếm chớ đâu có tài tế thế an bang đến nỗi Sở Vương phải hạ mình cầu thỉnh.
Chắc mệnh lệnh đây không ngoài việc bắt ta đúc kiếm báu. Nghe nói Sở Vương uy dũng thiệt, nhưng tàn ác vô cùng mà vào tay người ấy thì có khác chi cọp thêm nanh vuốt tất hại nhiều cho thiên hạ. Thôi, việc tới đâu hay tới đó, bề nào cũng phải đi, sẽ tùy cơ ứng biến.
Từ nãy Văn Công vẫn im lìm ngồi chờ.
Âu Dương Nghĩa bèn nói :
- Phiền tôn ông ngồi dùng trà, tôi vào nhà trong thu xếp hành trang.
Văn Công gật đầu mỉm cười :
- Nếu vậy thì hay lắm, xe ngựa chờ cả ngoài kia rồi...
Tức thì Âu Dương Nghĩa vào nhà trong dặn dò vợ con. Rồi vác bọc hành lý cùng Văn Công ra khỏi nhà.
Văn Công vỗ tay mấy cái. Đoàn người ngựa võ trang đầy đủ từ góc núi tiến tới.
Họ Văn mời Âu Dương Nghĩa lên xe rồi ra lệnh trực chỉ kinh thành Thọ Xuân.
Về tới kinh đô, Văn Công lưu Âu Dương Nghĩa ở dinh mình khoản đãi và ngay ngày hôm sau vào triều kiến Sở Vương.
- Muôn tâu bệ hạ, ngu thần đã mời được Âu Dương Nghĩa về đây rồi, hiện y đang ở trong dinh.
Sở Vương cả mừng :
- Công lao của khanh rất lớn. Trẫm sẽ hạ chỉ đặc cách thăng hai trật và hậu thưởng. Nay khanh khá triệu y vào thẳng hậu cung để Trẫm xem mặt gấp.
Văn Công tạ ơn, tức tốc về dinh đưa Âu Dương Nghĩa vào chầu.
Sở Vương thấy Âu Dương Nghĩa tướng mạo tuy khô khan nhưng điềm đạm quắc thước, lấy làm đẹp ý, phán :
- Miễn đại lễ cho Âu Dương khanh, vừa mới đi đường xa mệt nhọc. Đáng lẽ phải để khanh nghỉ ngơi ít bữa, nhưng Trẫm mong gặp hiền sĩ cho thỏa lòng mong chờ, tưởng hiền khanh chẳng nên thế làm buồn.
Nhác thấy Sở Vương uy nghi, hung dữ, Âu Dương Nghĩa vòng tay tâu :
- Ngu thần quen sống nơi sơn dã không biết lễ phép chốn triều trung, cúi mong Bệ hệ thứ cho mọi điều sơ suất.
Sở Vương truyền mời hai người ngồi. Nội thị dâng yến.
Sở Vương mỉm cười hỏi Âu Dương Nghĩa :
- Chẳng hay hiền khanh đã hội được ý trẫm thỉnh về đây có mục đích gì không?
- Muôn tâu, kẻ hạ thần đang phân vân tư vấn mà chưa tìm được câu trả lời.
Vuốt râu đắc ý, Sở Vương cười ha hả :
- Dễ hiểu lắm! Trẫm là người ưa dùng kiếm, nghe danh hiền khanh là một thuật gia có tài đúc nổi báu kiếm, nên muốn nhờ hiền khanh giúp trẫm luyện một cặp Thư, Hùng trước là phòng thân, sau là bình thiên hạ, công ấy của khanh ắt không nhỏ.
- Dạ, ngu thần xin cố sức, song lẽ...
- Sao!
- ... Muôn tâu thì giờ luyện kiếm mất khá lâu và ngu thần phải về Thất Lý sơn mới có thể hoàn thành được.
- Cái đó không ngại. Trẫm chấp nhận điều kiện ấy. Nhưng ước chừng bao lâu?
- Muôn tâu, phải trên một năm mới hoàn thành nổi hai cây Thư, Hùng.
- Trên một năm, chớ nếu ba năm Trẫm cũng kiên tâm chờ đợi. Khanh cần dùng thứ gì, cứ việc bảo Văn Công lấy trong kho. Trẫm đặc cách cho khanh tùy nghi sử dụng.
- Muôn tâu, ngu thần cần hai mươi cân thép cực hảo, mười nén vàng y, năm nén bạc nguyên chất và mười cân đồng bạch hảo hạng.
- Được lắm!
Đưa mắt nhìn Văn Công, Sở Vương nói tiếp :
- Trẫm sẽ truyền lệnh cho viên quan coi kho. Còn việc giúp đỡ Âu Dương khanh. Trẫm hoàn toàn trông cậy ở Văn khanh khá mau lẹ, hồi triều kẻo Trẫm mong chờ.
Nói đoạn, Sở Vương truyền nội thị lấy nghiên bút ngự phê thăng thưởng hai người, cho phép Văn Công nghỉ ba ngày, thu xếp việc nhà rồi sẽ cùng Âu Dương Nghĩa trở về Thất Lý sơn.
Trong ba ngày, hôm nào Sở Vương cũng mời Âu Dương vào cung đãi yến cực kỳ hậu hĩ.
Âu Dương Nghĩa thừa hiểu Sở Vương sợ mình bỏ trốn nên cho Văn Công theo coi chừng. Thế là từ nay tấm thân an nhàn tự tại, bỗng trở thành cá chậu, chim lồng.
Sáng hôm thứ tư, Văn Công điểm quân tải đủ lương thực lên nhiều xe rồi cùng Âu Dương Nghĩa trực chỉ nẻo Thất Lý sơn.
Về tới nơi, Âu Dương Nghĩa bắt tay vào việc đúc kiếm ngay.
Còn Văn Công thì truyền quân đóng trại ở cách Âu Dương chừng vài trăm thước canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt.
Âu Dương Nghĩa đúc hai cây đặt tên là Thư Hùng, Trảm Lư và một cây kiếm thường cách thức ý hệt thanh Hùng kiếm.
Hai chữ Thư Hùng bằng vàng dát ở chuôi kiếm, còn chữ Trảm Lư thì dát ở bao bằng đồng.
Hai năm sau mới hoàn thành, Âu Dương Nghĩa bảo vợ là Lý thị :
- Như hiền thê đã hiểu, việc đúc kiếm cho Sở Vương là ngoài ý muốn của ta. Nay công việc đã hoàn thành lẽ ra chỉ trao kiếm cho Văn Công mang về kinh sư Thọ Xuân cũng được, thì Sở Vương mời ta cùng đi.
- Sở Vương vốn tham tàn, nay được báu kiếm tất y sợ ta đúc kiếm cho người khác, nên nữa thế nào cũng hại ta. Vậy chuyến đi này vị tất đã hòng ngày về, có lẽ vợ chồng ta từ đây vĩnh biệt. Sau bao năm chăn gối, ta có được hai con trai, hiền thê khá trông nom chúng nên người để báo thù sau này, lấy được thủ cấp Sở Vương mới hả giận.
Âu Dương Nghĩa ái ngại thương cảm nhìn Lý thị khóc sướt mướt hồi lâu mới nghẹn ngào nói tiếp.
- Ta để lại nhà cây Hùng kiếm khi ta đi khỏi, hiền thê nên đem con và kiếm về quê ngoại vì ta e Sở Vương hại ta, nhưng sẽ nhổ cỏ nhổ rễ để tránh mối lo hiềm thù. Không thể nào có nổi cây báu kiếm thứ hai nữa, hiền thê khá giữ gìn cẩn thận cho con sau này báo thù. Chuyến đi đây lành ít dữ nhiều. Vậy sau khi ta đi rồi, hiền thê khá nghe lời kíp thi hành những điều căn dặn, dù có chết ta cũng được an tâm là dòng Âu Dương còn có kẻ nối dõi tông đường.
Lý thị khóc sướt mướt không nói lên lời.
Âu Dương Nghĩa gọi hai con âu yếm đặt ngồi lên đùi :
- Các con ở lại khá ngoan ngoãn nghe lời mẫu thân dạy bảo cho người được vui lòng nhé...
Âu Dương Thái năm đó ngót sáu tuổi, liền hỏi cha :
- Phụ thân còn đi đâu nữa, sao không ở nhà với mẫu thân con? Bao giờ về!
- Cha con đi có việc, lâu năm mới về, các con phải chăm chỉ học hành, nghe lời thân mẫu dạy bảo.
- Dạ, con chăm học nhưng sao mẫu thân lại khóc nhiều thế, thưa cha.
Âu Dương Nghĩa lòng đau như cắt, vuốt tóc trẻ thơ ngây :
- Thôi, con còn nhỏ dại chớ hỏi nhiều, lớn lên sẽ biết.
Âu Dương Tòng lên bốn, từ nãy vẫn há miệng nghe, u ơ hỏi cha :
- Phụ thân nhớ mua bánh về cho mẫu thân và chúng con ăn nhé :
- Ờ!... Cha sẽ mua... Thôi hai con ra sân chơi đi.
Âu Dương Nghĩa thần người ra nhìn hai con dắt tay tung tăng chạy vào sau nhà.
Lý thị òa lên khóc, quỳ trước chồng tam bái :
- Từ nay kể như âm dương cách biệt, xin chàng hãy chứng kiến cho lòng thiếp qua mấy lạy này. Vì hai hột máu dòng họ Âu Dương còn thơ ấu, thiếp phải tạm kéo dài chuỗi ngày tàn. Chàng sống khôn thác linh rán chờ thiếp chốn cửu tuyền.
Nàng nức nở gục xuống chân chồng.
Âu Dương Nghĩa đau đớn căm hờn xõa tóc rút Trảm Lư hùng kiếm cắt mớ tóc buộc vào chuôi kiếm gác lên đầu Lý thị rồi lẳng lặng bước ra khỏi phòng lấy hai thanh kiếm xuống thẳng trại quân Văn Công.
- Xong rồi, chúng ta có thể lên đường.
Văn Công mừng rỡ hối quân giở trại tức khắc khởi hành. Ngày đi đêm nghỉ, hơn một tháng sau về tới kinh thành Thọ Xuân.
Được tin Sở Bình vương cho mời hai người vào ngay trong nội sang đãi yến. Âu Dương Nghĩa quỳ dâng hai tay trường kiếm lên Sở Vương :
- Muôn tâu, nhờ đức lớn của Bệ hạ, ngu thần đã hoàn thành được hai cây Thư Hùng, Trảm Lư trường kiếm, dám mong với báu kiếm này. Bệ hạ sẽ bình thiên hạ, an trị muôn dân.
Sở Vương sung sướng nhìn cặp trường kiếm, thận trọng hỏi :
- Chẳng hay trước khi đem dùng, cặp kiếm báu này có tánh cách gì khác thường không?
- Muôn tâu, báu kiếm chém sắt như bùn. Bệ hạ dùng Thư trước thử xem, chừng nào cây Thư được khai kiếm uống máu người rồi sẽ thử tới cây Hùng thì không phải khai kiếm bằng huyết nữa. Lúc đó, Bệ hạ để hai lưỡi kiếm gần nhau tự khắc sẽ có tiếng run nhè nhẹ tựa hồ giọng huyền Thiên Thai... Nếu là kiếm giả tất không có tánh linh đó.
Sở Vương mừng rỡ nhìn chằm chặp vào mặt Âu Dương Nghĩa. Đoạn phá lên cười, tiếng cười lanh lảnh ghê sợ khác thường khiến bọn nội thị hầu tiệc khiếp đởm đưa mắt nhìn nhau. Ngay như Văn Công cũng thấy rùng mình vì trận cười sằng sặc như dao bén, quỷ quái như tiếng má từ âm tự bốc lên. Họ Văn khiếp đảm, cảm thấy việc chỉ hệ trọng kinh khủng sắp xảy ra tới nơi.
Tiệc yến kéo dài tới đầu canh một mới tan.
Sở Vương truyền nội thị đem văn phòng tứ bảo đến phê một đạo chỉ đặc cách phong Âu Dương Nghĩa lên chức Trung Đại phu trưởng ban đúc Ngự khí, rồi vuốt râu tự tay đưa cho Âu Dương mà rằng :
- Văn khanh có công tìm ra người tài đã đặc cách trật rồi nay Trẫm cũng đặc cách phong tước lớn để đền ơn Âu Dương khanh, và kể từ lúc này hiền khanh là người của triều ca Sở quốc.
Âu Dương Nghĩa quỳ lạy đón lấy đạo chỉ cắp vào ngực áo, nhưng Sở Vương phán :
- Khanh khá mở chiếu đọc ngay mới biết mình đã lãnh tước gì chớ.
Âu Dương Nghĩa lãnh đạm mở chiếu ra đọc lớn, rồi lạy tạ về chỗ ngồi.
Sở Vương cười ha hả :
- Âu Dương khanh đã vui lòng chưa?
- Dạ...
Sở Vương nhìn bọn nội thị phán :
- Các ngươi sang võ phòng bày giá võ khí ra chính giữa, đêm nay, Trẫm cao hứng muốn thử xem còn đủ dũng lực đáng làm chủ cặp báu kiếm này không.
Nội thị dạ rân, sang mở cửa phòng, nơi mà Sở Vương thường luyện võ trong cung.
Lát sau nội thị trở vào tâu :
- Tâu Bệ Hạ, võ phòng sẵn sàng rồi ạ.
Sở Vương đứng lên đưa tay mời Văn Công và Âu Dương Nghĩa :
- Nhị vị hiền khanh hãy theo Trẫm và nhận xét xem sức Trẫm thế nào?
Dứt lời, Sở Vương đi trước, Văn Công và Âu Dương Nghĩa theo sau.
Sở Vương cởi long bào cổn vắt lên lưng kỷ.
Văn Công và Âu Dương Nghĩa ngồi ở kỷ hai bên đấu án thơ.
Sở Vương tiến tới bên án cầm lấy thanh Thư kiếm, lạnh lùng hỏi Âu Dương Nghĩa :
- Hồi nãy khanh nói là có thể cây Thư trước phải không?
- Dạ!
Tuốt ra khỏi bao, Sở Vương lật đi lật lại lưỡi kiếm nhận xét rồi đi ra khỏi phòng hoa lên mấy đường, ánh kiếm loang loáng.
Thét lên một tiếng khiến mọi người giật mình, Sở Vương nhằm cây đại phủ cán sắt gài trên giá, chém mạnh :
- Soạt...
Cán đại phủ bị tiện đứt đôi, lưỡi phủ rớt xuống gạch kêu loảng xoảng. Thích chí, Sở Vương vẫn múa kiếm chém luôn một lát nữa tiện đứt đôi ngọn giáo dễ dàng.
Sung sướng, Sở Vương biểu diễn thành bài kiếm lùi dần lại nơi án thư, rồi nhân lúc xuất kỳ bất ý khai kiếm chém rụng đầu Âu Dương Nghĩa lăn lông lốc trên sàn gạch bông. Thây đổ ngả trên kỷ, máu từ cổ phun vọt lên như cầu vồng.
Văn Công giật nảy người, vội vàng chạy ra núp sau chiếc cột lớn, mặt xám ngắt.
Bọn nội thị tưởng Sở Vương say rượu giết càn cũng vội ùa chạy.
Nhưng Sở Vương ngừng tay kiếm nói lớn :
- Văn khanh và các ngươi đừng sợ, Trẫm hạ Âu Dương Nghĩa vì một lý do khác và nhân thể khai kiếm báu.
Nói đoạn, Sở Vương thản nhiên nhìn lưỡi kiếm thấy không dính máu thì khen thầm là bảo vật.
Tra Thư kiếm vào vỏ, Sở Vương rút cây Hùng kiếm, đoạn đi ra chỗ giá binh khí, múa lên vài đường nhưng lấy làm lạ nghĩ thầm :
- Quái, sao lưỡi kiếm này không phát lãnh khí như cây Thư.
Nghĩ vậy, nhà Vua liền nhằm lưỡi thanh đại đao, hao kiếm chém xuống.
Hai thứ kim khí chạm phải nhau chát chúa, tóe lửa nhưng lưỡi đao vẫn y nguyên, Sở Vương ngờ rằng mình chém nhẹ tay quá, bèn tận lực hạ luôn một nhát nữa.
Cũng như lần đầu không có hiệu quả!
Bực mình, nhà vua thâu kiếm lại nhìn thì càng thất vọng luôn.
Lưỡi kiếm nhụt và mẻ mất mấy miếng y hệt như kiếm thường.
Sở Vương suy nghĩ chợt hiểu ra là Âu Dương Nghĩa lừa mình chỉ đưa có một cây Thư kiếm, còn cây Hùng Kiếm là thứ giả, bởi vậy y mới dặn thử Thư kiếm trước, khai kiếm rồi hãy thử cây Hùng.
Sở Vương càng nghĩ càng căm tức. Tại sao Âu Dương Nghĩa lại tráo kiếm.
Dễ hiểu lắm! Vì y đoán biết mình sẽ giết hắn, nên hắn làm ra thất vọng :
- Giờ đây, y chết rồi thì còn ai đúc kiếm khác cho ta nữa.
- À! Không lẽ nào Âu Dương Nghĩa chỉ đúc một cây Thư kiếm. Chắc thanh Hùng kiếm còn lại trong nhà y ở Thất Lý sơn. Ta phải thân chinh đi lấy mới được.
Nghĩ đoạn, Sở Vương liệng thanh kiếm nhụt xuống gần thủ cấp Âu Dương Nghĩa rồi gọi :
- Văn khanh.
Từ này, Văn Công và bọn nội thị ai nấy đều nơm nớp lo sợ không hiểu rồi đây Sở Vương sẽ nhằm người nào mà khai thứ kiếm quái ác ấy nữa, nên Văn Công giật mình đánh thót một cái từ từ bước ra khỏi chỗ ẩn nấp :
- Muôn tâu, Bệ hạ có điều chi dạy bảo.
Trông thấy thái độ sợ sệt của Văn Công, Sở Vương phát tức cười :
- Khanh là thủ túc của Trẫm việc chi mà sợ? Âu Dương Nghĩa đã lừa ta. Y tráo cây Hùng kiếm giả. Sớm mai, Trẫm thân chinh đi Thất Lý sơn khám xét nhà y tìm thanh Hùng Kiếm thật. Văn khanh khá sửa soạn vệ quân. Tất cả trá hình thành khách thương để mọi người khỏi chú ý đến ta.
Văn Công lạy tạ lui về dinh. Sở Vương cũng cầm thanh Thư kiếm trở về hậu cung an nghỉ.
Hôm sau, Sở Vương và Văn Công lên đường đem theo hai mươi viên tùy tướng kéo dốc vào Thất Lý sơn. Văn Công cưỡi ngựa dẫn đường. Lúc tới nơi, thì toàn khu nhà Âu Dương Nghĩa trước kia gọn gàng xinh xắn như vậy mà nay chỉ còn là đống tro tàn. Những luống bông, đẹp đẽ đã bị cỏ mọc lấn khắp mọi nơi.
Sở Vương và Văn Công xuống ngựa trong khu đất bước lên những miếng tường nhà đổ nát tần ngần xem xét. Mấy con sóc núp dưới đống gạch vụn bị động chạy vụt vào các bụm cây bên vách núi.
Sở Vương khẽ gật đầu nói một mình :
- Âu Dương đoán được ý ta nên đã sửa soạn đủ cả trước khi đi! Đáng tiếc.
Quay lại nhìn Văn Công đứng ở phía sau, Sở Vương hỏi:
- Trước khi rời Thất Lý sơn, văn khanh có nhận thấy gì khác ở Âu Dương Nghĩa không?
- Muôn tâu y rất thản nhiên nên ngu thần không nghi ngờ chi cả.
- Đã đành, ngay đến Trẫm đã dự tính trước mà còn nhầm. Mất công mà không toại ý. Thôi về khanh.
Nói về Lý thị, khi Âu Dương Nghĩa vừa đi được ít ngày, tức khắc thu xếp mọi vật trong nhà cùng người lão bộc là Trương Đức đem hai con trai và tiểu đồng về quê ở Kinh Luân huyện thuộc nước Hàn. Trước khi đi, Lý thị bảo Trương Đức hỏa thiêu nhà cũ rồi mới lên đường. Ngoảnh lại trông ngọn lửa bốc cao thiêu rụi nơi tổ ấm trong khi người chồng thân yêu xa vắng nơi quê người không biết sống chết thế nào, Lý thị lòng đau như cắt, lệ mờ khóe mắt trung trinh.
Về quê ngoại được mấy ngày, một đêm mưa gió lạnh lẽo, nàng chong đèn ngồi bên giường khâu áo cho con và thỉnh thoảng âu yếm nhìn hai trẻ nhỏ ngây thơ ngủ say sưa. Trông con nhớ đến chồng, nàng gạt lệ đau thương. Nàng khâu, khâu mãi đến khuya bất giác, mệt mỏi quá, ngủ gục bên con lúc nào không biết. Bỗng gió thổi tung hẳn cánh cửa phòng, Lý thị giật mình vội vã chồi dậy định ra đóng cửa thì một người tóc rối bời rủ xuống mặt từ ngoài sân đen tối lù lù bước vào. Người đó tiến đến bên ngọn đèn dầu leo lắt đứng thẳng nhìn mẹ con Lý thị. Nhờ ánh đèn, nàng kinh ngạc nhận ra nét mặt âu sầu của chồng, người chồng yêu quý mà hàng ngày nàng đếm từng phút giây đợi từng giờ...
Nhưng lạ thay! Coi kìa, sao cổ chàng lại có một vệt đỏ chạy quanh máu từ vệt ấy vẫn còn thấm lần lần nhỏ giọt xuống án. Sắc mặt chàng trắng bệch.
Lý thị gọi :
- Lang quân.
Mừng mừng tủi tủi, nàng đưa tay định ôm lấy chồng thì Âu Dương Nghĩa vội vàng lùi lại ra hiệu bảo nàng ngồi nguyên ở giường.
Nghi hoặc, Lý thị gọi nữa :
- Kìa, lang quân! Làm sao vậy.
Âu Dương Nghĩa lẳng lặng nhúng tay vào ly nước để bên ngọn đèn viết ba chữ lên mặt bàn.
Viết xong chàng vẫy tay ra dáng từ biệt vợ con lùi dần ra cửa.
Lý thị thấy chồng bỏ đi, hoảng quá, vùng dậy đuổi theo nhưng một luồng gió mạnh thổi thuốc vào phòng bung cả rèm cửa khiến nàng lạnh quá tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn quanh... Không, ngoài trời im lặng như tờ, không hề mưa gió... Then cửa cài chặt, căn phòng ấm cùng như thường. Trên giường, ngay bên nàng hai trẻ nhỏ vẫn ngủ say, hơi thở đều đều.
Ồ, thì ra một giấc chiêm bao! Nàng mệt quá, ngủ thiếp đi mở thấy chồng về, tay nàng còn cầm chiếc áo khâu dở dang.
Nhưng kỳ thay, sao tóc chàng rũ rượi, sắc mặt trắng bệch, đầu tử khí, cổ vấy máu... Sao? Hay là... Chợt nhớ ra điều gì Lý thị vùng đứng dậy lên nhìn xuống chiếc mặt bàn nhỏ nơi mà vừa đây chồng nàng nhúng tay vào ly nước viết mấy dòng chữ... Ồ! Nét chữ hãy còn rành rành trên mặt bàn. Lý thị cúi xuống đọc:
"Sở Vương sát!"
Nàng hiểu ngay. Chồng nàng chết rồi nên linh thiêng về báo mộng cho mẹ con nàng biết kẻ sát nhân là Sở Vương tàn ác.
Đau đớn quá, Lý thị lăn ra giường vùi đầu xuống mền khóc không ra tiếng...
Âu Dương Thái chợt tỉnh ôm chầm lấy cổ mẹ thỏ thẻ :
- Mẫu thân à, con thấy phụ thân về bảo con báo thù, dặn con hỏi mẫu thân tên kẻ thù là gì...
Lý thị gạt nước mắt ôm lấy con, nói nhỏ :
- Lớn lên con sẽ biết...
- Ồ, sao mẫu thân lại khóc kìa!
- Ngủ đi con, kẻo em nhỏ mất giấc bây giờ, nằm xuống đây ngủ đi, mẹ thương.
Âu Dương Thái ngoan ngoãn theo lời mẹ.
Lý thị không khóc nữa. Bây giờ nàng đã biết sự thật, qua giấc chiêm bao, nhưng nàng căn cứ ba chữ mà chồng nàng đã hiện về báo thù viết trên bìa còn rõ rành rành! Mẹ con nàng phải tính cách báo thù.
Hôm sau, Lý thị phát tang lấy chiếc bàn nhỏ kê giữa nhà làm bàn thờ. Kỳ thay, ba chữ "Sở Vương sát" viết bằng cặn nước trà mà nay thẫm lại, rõ rệt như viết bằng sơn lau chùi cũng không đi được.
Lý thị lấy cây Trảm Lư hùng kiếm vẫn có mớ tóc buộc ở chuôi dựng trên bàn thờ, sớm tối thắp hương cầu nguyện.
Một hôm, Lý thị đang ngồi dạy hai con học thì bỗng nghe thấy tiếng trẻ trong thôn reo ầm ầm ngoài cổng và có tiếng hát.
"Ai ơi muốn báo thù chồng.
Cho con học tập gánh gồng theo ngay.
Ai ơi muốn báo thù cha.
Theo về Thất Lý lạy ta làm thầy".
Giọng hát ấm áp như tiếng chuông vàng. Lý thị lấy làm lạ không hiểu cây ngụ ý gì bèn giắt hai con đi ra cổng nhà xem.
Thì ra người có giọng tốt ấy là vị đạo nhân râu tóc trắng như cước, sắc diện hồng hào, vận đạo bào thiên lý, lưng đeo bầu nước, chống gậy trúc đi vừa nghêu ngao hát mấy câu trên.
Bọn trẻ trong thôn lấy làm lạ nên kéo nhau theo sau xem.
Đạo nhân hát một lần nữa.
Lý thị nghe rõ ràng lấy làm kỳ lạ bèn bảo Âu Dương Thái :
- Con hãy chạy ra mời đạo nhân vào nhà.
Âu Dương Thái vâng lời chạy tới trước mặt lão đạo nhân vái chào :
- Kính thưa sư phụ, gia mẫu mời người vào nhà lãnh giáo.
Đạo nhân dừng bước nhìn kỹ tiểu thị :
- Nhà con ở đâu?
Âu Dương Thái chỉ tay về phía nhà mình :
- Thưa sư phụ nhà con ở kia, mời người theo con.
Đạo nhân khẽ gật đầu, bảo :
- Con đi trước, ta theo sau ngay. Nhưng con tên là gì?
- Tên con là Âu Dương Thái.
Tiểu nhi nói đoạn đi trước, dẫn đường, đạo nhân mỉm cười theo sau.
Qua cổng vào tới nhà ngoài, Lý thị giắt tay Âu Dương Tòng lạy chào :
- Mẹ con ngu muội không hiểu câu hát của sư phụ, xin người vui lòng chỉ dẫn cho.
Lão đạo nhân lặng lẽ nhìn Lý thị và hai tiểu nhị vận đồ tang chỉ :
- Bàn thờ lệnh phu quân đâu.
Lý thị rơm rớm nước mắt :
- Thưa sư phụ, ở nhà trong.
- Bần đạo có thể vào bái linh hồn người được không?
- Dạ, nhưng xin sư phụ chước đi cho.
Lão đạo nhân cầm tay Âu Dương Thái đi thẳng vào nhà trong, đứng trước bàn thờ lặng lẽ nhìn hồi lâu rồi châm mấy nén nhang, cầm lấy cây Trảm Lư nhìn qua, đưa cho Âu Dương Thái mà rằng :
- Tiểu nhi muốn báo thù cha hãy đỡ lấy kiếm linh này lạy trước bàn thờ.
Âu Dương Thái rất tinh khôn, theo lời lão đạo nhân đứng bên lẩm bẩm nhỏ những gì không nghe rõ.
Trong giờ khắc nghiêm trọng, Lý thị cũng cùng Âu Dương Tòng quỳ xuống bên bàn thờ khấn vái linh hồn chồng chứng minh.
Lão đạo nhân khấn xong bảo mẹ con Lý thị đứng dậy, đỡ lấy cây trường kiếm tháo mớ tóc của người xấu số đặt lên bàn thờ và nói rằng :
- Bần đạo là Thất Lý đạo nhân tu ở trên đỉnh núi cuối dãy Thất Lý sơn. Trước đây linh cố phu quân đã có nhiều lần tới đó cùng nhau đàm đạo. Một hôm, bần đạo xuất sơn vân du vừa đi đến đầu Thất Lý sơn thì thấy người nước Sở đi cầu hiền đãi bén mách bảo những mong Sở Vương biết tài kẻ sĩ thâu dụng lệnh phu quân, ngờ đâu khi trở về qua nơi nhà cũ thấy đã bị hỏa thiêu. Bần đạo liền qua Sở thăm dò mãi mới tìm được Văn Công là xứ của Sở Vương. Bần đạo lập mưu khiến họ Văn phải thú thật việc Sở Vương đã manh tâm hãm hại lệnh phu quân. Nhớ rằng trước kia đã có lần lệnh phu quân cho biết rằng quê ngoại ở Kinh Luân huyện bên nước Hàn, nên Bần đạo tìm tới đây có ý muốn thâu lệnh lang làm đồ đệ để sau này đủ tư cách báo thù. Tự xét, Bần đạo thấy có phần trách nhiệm trong việc Sở Vương sát hại Âu Dương hiền sĩ vì chính bần đạo mách bảo Văn Công tới nhà Âu Dương. Nay thâu lệnh lang làm đồ đệ, bần đạo thấy lương tâm áy náy phần nào.
Âu Dương Thái nghe lão đạo nhân thuật lại chuyện xưa, bèn quỳ xuống lạy mẹ cho phép theo người về núi học đạo sau này báo thù.
Lý thị rất đỗi thương con còn nhỏ dại đã mồ côi cha, nay lại xa mẹ, nhưng biết làm sao? Nếu không cho con bái sư vào núi thì còn chờ việc nào tốt hơn nữa.
Lý thị chợt nhớ ra điều gì, liền giắt con đứng lên :
- Việc báo thù là bổn phận của mẹ con ta, Mẹ rất mừng thấy con chí khí, vậy để mẹ thưa lại một điều với sư phụ đây xem người dạy thế nào.
Thất Lý đạo nhân hỏi :
- Chẳng hay phu nhân có điều chi thắc mắc.
Lý thị nói :
- Mẹ con đệ tử vốn cư ngụ ở Thất Lý sơn đã lâu rồi, nay trở về, nhân tiện trông nom Âu Dương Thái theo sư phụ học hành có được không?
- Cũng được, nhưng không nên ở nơi nhà cũ vì Sở Vương hiện thời còn sống. Chi bằng lên cả trên núi ẩn danh mới được.
Lý thị bèn giắt Âu Dương Thái quỳ lạy đạo nhân :
- Kham khổ thế nào cũng được, miễn là Thái nhi có chốn học hành và mẹ con không phải xa cách nhau, vậy xin sư phụ hãy nhận lễ biết ơn của mẹ con đệ tử.
Thất Lý đạo nhơân đỡ mẹ con Lý thị dậy :
- Phu nhân liệu thu xếp hành trang, ba ngày nữa bần đạo sẽ trở lại đây rước đi.
Dứt lời, đạo nhân ra đi.
Lý thị bàn với lão bộc Trương Đức và người nhà rồi thu xếp cùng đạo nhân trở lại Thất Lý sơn dựng một ngôi nhà cỏ ở gần am thiên tạm trú trong thời gian hai anh em họ Âu Dương cùng thọ giáo.
Mười năm sau, lúc bấy giờ nước Sở đã mạnh, Bình Vương thi hành chương trình bình thiên hạ. Mục tiêu đầu tiên là diệt Hàn lấy lối đi.
Đoàn viễn chinh quân đóng trại trùng trùng điệp điệp cả ngoài kinh thành Thọ Xuân, chỉ còn chờ ngày lành là Sở Vương ra tế cờ thân chinh.
Ngay dịp đó, một hôm bỗng có hai đạo sĩ một già râu tóc bạc phơ Tiên Phong đạo cốt, đai giắt hồ lô, một trẻ trạc độ mười chín đôi mươi, mi thanh mục tú, lưng đeo trường kiếm, đủng đỉnh đi đến trước Ngọ môn cười sằng sặc xong rồi lại khóc một lúc.
Vệ Quân lấy lạ bèn chạy ra hỏi :
- Hai đạo sĩ điên rồi này sao lại tới chỗ cấm địa này mà cười cười khóc khóc? Biết điều đi nơi khác ngay.
Lão đạo sĩ điềm đạm nói :
- Bộ các ngươi thì biết gì mà hỏi lôi thôi! Ta muốn đi thì đi muốn đứng thì đứng, cấm làm sao được? Tiếc thay cho vị minh quân sắp xuất chinh mà ngu tối không hiểu gì cả...
Một vệ quân trừng mắt quát :
- Mấy nhà tu hành gàn dở này đi ngay, coi chừng phạm tội khi quân rụng đầu đó nghe.
Hai đạo sĩ vẫn đứng nguyên chỗ tiếp tục việc "khóc, cười".
Vệ quân bực mình đẩy hai người ra chỗ khác, nhưng lạ thay cả hai càng đứng vững như núi, lay không chuyển.
Viên trưởng đoàn lấy làm kỳ dị nghĩ thầm, chưa biết chừng hai đạo sĩ là bậc dị nhân có ích cho việc xuất chinh của Nhà vua, bèn vội vàng vào báo tự sự cho Sở Vương.
Lúc đó thì nhà vua đang sắp sửa dùng Ngọ phạn, nghe báo lấy làm lạ, tò mò truyền vệ quân điệu hai đạo sĩ đó vào nội điện.
Sở Vương nghĩ thầm :
- Quả nhân vẫn muốn thâu những bực dị nhân có thể giúp ích cho cuộc trường chinh sắp tới đây, biết đâu không phải là hai người này.
Nghĩ vậy, Nhà vua liền truyền hoãn dọn bữa, chờ xem bọn đạo sĩ làm gì.
Lát sau, vệ quân dẫn đạo sĩ vào tới nơi. Hai người nhìn Sở Vương không chớp mắt hồi lâu bỗng quỳ cả xuống bái kiến, Lão đạo sĩ nói :
- Cúi xin minh quân tha tội mạn thượng cho, nhưng bần đạo vân du khắp thiên hạ mà đến nay mới thấy Thánh thượng quý tướng dáng ngôi Hoàng đế trị vì thiên hạ thâu gồm chư hầu về một mối giang san, hiềm có một điều...
Trúng tâm lý, Sở Vương khoan khoái thân đỡ hai đạo sĩ dậy, ban kỷ cho ngồi, ngắm nghía nhận xét thấy hai đạo sĩ quả rất đạo mạo tiên cốt, lấy làm đẹp ý hỏi rằng :
- Nhị vị đạo hiệu chi, từ đâu qua đây? Có thuật chi giúp quả nhân trong cuộc thân chinh này?
Lão đạo sĩ nói :
- Muôn tâu, bần tập tu ở Thái Hàng sơn, đạo hiệu là Kiếm Phong, còn ngu đồ là Kiếm Vân, nay y đã tứ tuần...
Sở Vương ngạc nhiên ngắt lời :
- Tứ tuần! Sao còn trẻ như người mới đôi mươi vậy?
- Muôn tâu, bần đạo nghiên cứu thuật trường sanh bất lão, mãi sau này mới đạt được kết quả nên thử áp dụng cho Kiếm Vân, bởi vậy y mới được trẻ mãi từ năm mười tám cho đến nay không hề thay đổi.
- Riêng phần bần đạo thì chỉ được trường sanh chớ không được trường thiếu. Năm nay ngót chín mươi ba tuổi mà còn tinh tường khỏe mạnh như thế là nhờ thuật đó.
Sở Vương mừng rỡ :
- Tiên trưởng có thể giúp quả nhân được không?
Muôn tâu, chuyến này từ Nam Hải qua Sở cũng vì coi thiên văn thấy Đế tinh chói sáng ở đây, nên bần đạo cũng có ý giúp Bệ hạ đúng vận mạng người có tướng tinh được hưởng thì sẽ thất đức, nên bần đạo phải thận trọng.
Sở Vương gật đầu ngẫm nghĩ giây lát :
- Cớ sao tiên trưởng lại khóc, cười trước Ngọ môn vậy :
- Muôn tâu nếu không mạo muội thì làm sao được vào bệ kiến ngay.
Sở Vương đắc ý mỉm cười :
- Bây giờ Trẫm phải theo điều kiện gì để được hưởng trường sanh bất lão.
- Thưa rất khó và cũng rất dễ tùy theo trường hợp của từng người. Trước hết, bần đạo cần có một chiếc vạc dầu cỡ trung bình, sau là hai chiếc sọ người.
Sở Vương giật mình hỏi :
- Sọ người!
Lão đạo sĩ khẽ gật đầu chậm rãi :
- Muôn tâu, chính vậy. Hai sọ người. Một cái của tên tử tù và một cái của thuật gia đúc võ khí. Có vậy thôi. Sở dĩ bần đạo nói là khó vì kiếm đâu ra sọ thuật gia đúc võ khí.
Sở Vương liên tưởng đến đầu Âu Dương Nghĩa năm xưa, bèn gật gù phán rằng :
- Được, Trẫm có thể cho kiếm ngay được. Chừng nào tiên trưởng thi hành? Trẫm sắp xuất chinh, không chờ được lâu.
- Muôn tâu, ngay đêm nay, giờ Tý trong một căn phòng kín đáo chỉ có Bệ hạ và chúng bần đạo.
Sở Vương ưng thuận, lưu hai đạo sĩ lại trong cung ban tiệc chay và ngay chiều hôm đó đòi Văn Công vào chầu truyền lệnh lấy sọ Âu Dương Nghĩa và sọ một tên tử tù.
Văn Công lúc đó thăng tới chức Tư Mã Đại Phu lấy làm ngạc nhiên hỏi nhà vua, nhưng Sở Vương giấu nhẹm, không trả lời rõ.
Tuy vậy, chung quanh võ phòng là nơi đặt vạc dầu, Sở Vương cũng cắt đặt vệ quân canh phòng nghiêm ngặt.
Đêm hôm ấy, hai đạo sĩ thiệt ra là Thất Lý đạo nhân và Âu Dương Thái vận đạo bào trông coi đun vạc dầu cho thiệt sôi.
Trên án thư gần đó để chiếc khay bày hai đầu lâu phủ vải trắng.
Đúng giờ Tý, Sở Vương vận thường phục tới. Thất Lý đạo nhân nói :
- Muôn tâu, bệ hạ tự tay bê chiếc khay này bày lên án thờ và thắp hương khấn theo nguyện vọng của bệ hạ.
Sở Vương lặng lẽ theo lời.
Chờ nhà vua khấn xong, Thất Lý đạo nhân và Âu Dương Thái cũng quỳ xuống trước bàn thờ, cũng khấn lẩm nhẩm hồi lâu, lão đạo nhân đứng lên giả đò đọc chân ngôn thần chú bùa trên hai đầu lâu, rồi mở hẳn vuông vải trắng ra thấy đề ở chiếc sọ bên tả Hoàng Vượng. Còn chiếc bên hữu thì đề Âu Dương Nghĩa.
Uất hận trào lên tận cổ Âu Dương Thái cố dằn lòng điềm tĩnh hành lễ theo mưu kế do Thất Lý đạo nhân vạch sẵn.
Trước hết, Âu Dương Thái trịnh trọng bê chiếc đầu lâu Hoàng Vượng nhẹ tay thả vào vạc dầu.
Thất Lý đạo nhân nói với nhà vua :
- Tâu bệ hạ, chừng nào bần đạo rắc thuốc làm phép, nếu có khói bốc lên thì bệ hạ khá cúi đầu trên mặt vạc dầu hô hấp lấy thứ khói đó cho ngấm vào lục phủ ngũ tạng. Hết khói mới ngừng để chờ giai đoạn thứ hai.
Nói đoạn, lão đạo nhân dốc hồ lô đổ ra mấy hoàn thuốc trắng, liệng từng hoàn một vào vạc dầu, lẩm nhẩm đọc chân ngôn, tay bắt quyết.
Quả nhiên, lát sau, một lần khói trắng từ chiếc đầu lâu lững lờ bay lên. Sở Vương đứng chờ sẵn bên vạc dầu liền cúi xuống thật tình hô hấp làn khói kỳ diệu ấy để được... trường sinh bất tử.
Thừa dịp nhà vua đang mải miết với làn khói... nhiệm mầu, Âu Dương Thái lẹ như chớp, tuốt Trảm Lư hùng kiếm quát lớn :
- Ác vương, coi con Âu Dương Nghĩa báo thù.
Một làn kiếm hoa lên, đầu Sở Vương rụng xuống v
Tác giả :
Tề Phong Quân